Một bước tiến vừa phải tiến tới COC

Ngày 3/8, tại Singapore, Ngoại trưởng của 10 quốc gia ASEAN cùng đồng cấp Trung Quốc đã công bố Văn Bản Đàm Phán Dự Thảo Bộ Quỵ tắc Ứng xử ở Biển Đông Duy Nhất.

Ngày 3/8, tại Singapore, Ngoại trưởng của 10 quốc gia ASEAN cùng đồng cấp Trung Quốc đã công bố Văn Bản Đàm Phán Dự Thảo Bộ Quỵ tắc Ứng xử ở Biển Đông Duy Nhất, làm cơ sở cho việc đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC).

Bộ trưởng Ngoại giao các quốc gia ASEAN và Trung Quốc chụp ảnh tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 51tại Singapore. Ảnh: CNA/AFP

Văn bản được cấu trúc gồm 3 phần chính: những điều khoản tiền đề, những điều khoản chung, và những điều khoản cuối cùng.

Văn bản nêu lại từ ngữ trong Khung COC rằng đây “không phải là một công cụ để giải quyết tranh chấp lãnh thổ hoặc phân định biển”.

Có 5 vấn đề chính được đề cập trong Văn Bản: phạm vi địa lý áp dụng COC; giải quyết tranh chấp; nghĩa vụ hợp tác; vai trò của các bên thứ ba; và tình trạng pháp lý của Bộ Quy tắc cuối cùng về Ứng xử ở Biển Đông.

Phạm vi địa lý

Văn bản không xác định rõ ràng phạm vi địa lý trên Biển Đông được áp dụng. Việt Nam đề xuất rằng, “Bộ quy tắc Ứng xử hiện tại sẽ áp dụng cho tất cả các thực thể đang trong tranh chấp và những vùng biển chồng lấn do những yêu sách theo UNCLOS 1982 ở Biển Đông.” Indonesia thêm, “các Bên cam kết tôn trọng Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo quy định trong UNCLOS 1982”. Malaysia đề xuất, “tùy thuộc vào các yếu tố/nội dung của COC, phạm vi địa lý/phạm vi áp dụng có thể cần phải được xác định”.

Giải quyết Tranh chấp

Một phần lớn văn bản được dành cho các vấn đề phòng ngừa, quản lý và giải quyết tranh chấp Biển Đông giữa các bên. Nhưng không đề cập các cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc.

Indonesia đề xuất, các Bên nhất trí, khi thích hợp, sẽ sử dụng Hội đồng Cấp Cao của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến các sự cố có thể xảy ra trên Biển Đông. Việt Nam đề xuất, các bên giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hữu nghị, điều tra, trung gian, hòa giải và những biện pháp khác theo thỏa thuận của các Quốc gia Thành viên.”

Văn bản nêu hai lựa chọn để giám sát việc thực hiện: Lựa chọn thứ nhất, được ủng hộ bởi Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Malaysia, và Singapore, đặt trách nhiệm vào Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN-Trung Quốc. Lựa chọn thứ hai, được đề xuất bởi Việt Nam, kêu gọi việc thiết lập một Ủy ban lãnh đạo bởi các Ngoại trưởng hoặc đại diện của các quốc gia.

Nghĩa vụ Hợp tác

Văn bản có nguồn gốc từ những điều khoản trong UNCLOS rằng các quốc gia ký kết có nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường biển trong một biển nửa kín và trong khi đang chờ giải quyết tranh chấp, các quốc gia ký kết cần tham gia vào những thỏa thuận có tính thực tiễn.

Phần 2 gồm 6 điểm: Nghĩa vụ hợp tác, Đẩy mạnh hợp tác hàng hải có tính thực tiễn), Tự kiềm chế/Thúc đẩy lòng tin và sự tín nhiệm, Phòng ngừa sự cố,Quản lý sự cố, và Các cam kết khác, phù hợp với luật quốc tế.

Được tranh luận nhiều nhất trong Văn Bản bao gồm giải thích dài tỉ mỉ 4 lựa chọn về nghĩa vụ hợp tác và thúc đẩy hợp tác hàng hải thực tế, tự kiềm chế/thúc đẩy lòng tin. Việt Nam đề xuất 27 điểm quy định những điều các quốc gia phải làm và không được làm.

Philippines, Indonesia và Singapore, Trung Quốc và Campuchia, lần lượt đề xuất bốn lựa chọn riêng biệt về nghĩa vụ hợp tác. Đề xuất của Trung Quốc thì có phần chồng chéo với những lựa chọn khác nhưng đáng chú ý ở chi tiết mà nó cung cấp trên sáu lãnh vực hợp tác: bảo tồn nguồn cá, hợp tác an ninh và luật biển, đi lại và tìm kiếm cứu nạn trên biển, nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, kinh tế biển bao gồm hợp tác trong lãnh vực thủy sản và dầu và khí, và văn hóa biển.

Quan trọng nhất là về hợp tác kinh tế biển, Trung Quốc đề xuất là sự hợp tác chỉ được thực hiện bởi các quốc gia ven biển “và không được hợp tác với các công ty từ những nước ngoài khu vực”; kêu gọi giao lưu giữa các lực lượng quốc phòng và quân đội bao gồm “tàu quân sự ghé thăm cảng của nhau và tuần tra chung một cách thường xuyên”; thường xuyên tập trận chung giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN.

Trung Quốc còn đề xuất các Bên không được tập trận chung với các nước ngoài khu vực, trừ khi các bên liên quan đã được thông báo trước và không phản đối.

Điểm đề xuất thứ năm của Trung Quốc lưu ý rằng các tàu và máy bay quân sự được hưởng quyền miễn trừ quốc gia và được “miễn trừ tài phán bởi bất cứ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu đăng ký”.

Trung Quốc và Philippines cùng thêm vào điểm thứ sáu gọi là “đối xử công bằng và nhân đạo cho tất cả những ai đang gặp nguy hiểm hoặc gặp nạn ở Biển Đông.”

Cuối cùng, Philippines đề xuất điểm thứ 7 bao gồm “tôn trọng việc ngư dân thực hiện những quyền đánh cá truyền thống… [và] tiếp cận các thực thể địa lý và ngư trường truyền thống.”

Việt Nam đề nghị rằng các Quốc gia Thành viên tôn trọng “các vùng biển được quy định và thiết lập phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982” và Các Quốc gia Thành viên cần cung cấp thông báo trước 60 ngày về cuộc tập trận chung/kết hợp sắp diễn ra ở Biển Đông.

Việt Nam cũng đề xuất một hướng dẫn cụ thể về những gì Quốc gia Thành viên không nên làm, bao gồm xây dựng trên bất kỳ đảo nhân tạo nào, quân sự hóa các thực thể, phong tỏa tàu chở lương thực hay luân chuyển nhân sự, tuyên bố Khu vực Nhận diện Phòng không, và tiến hành các các cuộc mô phỏng tấn công tàu và máy bay của các quốc gia khác.

Vai trò của Các Bên Thứ Ba

Các bên thứ ba là những quốc gia không tham gia ký kết COC. Đề xuất của Trung Quốc là nhằm ràng buộc các quốc gia thành viên ASEAN trong COC và giới hạn nếu như không phải là loại trừ sự tham gia của các bên thứ ba.

Tình trạng pháp lý

Văn bản không có tham chiếu nào cho thấy COC là một hiệp ước theo luật quốc tế. Mặc dù nó có một đề xuất của Việt Nam rằng Các Quốc gia Thành viên “đã đồng ý ràng buộc bởi Bộ Quy tắc Ứng xử hiện hành…” Việt Nam cũng đề nghị COC “phải được phê chuẩn theo thủ tục nội bộ tương ứng của các Quốc gia ký kết” và văn bản phê chuẩn sẽ được gửi cho Tổng thư ký ASEAN – người “sẽ đăng ký” COC theo đúng điều 102 Hiến chương Liên Hợp quốc.

Cả Brunei và Việt Nam đã đề nghị một cách độc lập rằng không Quốc gia Thành viên nào có sự bảo lưu nào đó khi ký kết COC.

Văn bản này vẫn đang là một tài liệu làm việc mà các bên vẫn có thêm hoặc bớt trong văn bản dự thảo. Có thể còn cần tới vài ba cuộc thảo luận trước khi tiến tới một Bộ Quy tắc cuối cùng về Ứng xử ở Biển Đông.

Trung Quốc chấp thuận văn bản này để đối phó với sự can thiệp của bên thứ ba, trước hết là Mỹ, vào thời điểm cuộc đối đầu Mỹ-Trung đang leo thang nghiêm trọng./.

Lưu Việt

Nguồn Tổ Quốc: http://toquoc.vn/the-gioi/mot-buoc-tien-vua-phai-tien-toi-coc-357329.html