Mô hình phát triển bền vững của EU và OECD và hàm ý chính sách phát triển bền vững ở Việt Nam

Mô hình phát triển bền vững của Liên minh châu Âu (EU) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dựa trên 3 chính sách trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường. Hàm ý chính sách phát triển bền vững cho Việt Nam là việc xây dựng các giải pháp hoàn thiện chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính sách môi trường; đồng thời tăng cường năng lực và trách nhiệm của Chính phủ, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ.

Ảnh minh họa - Nguồn: baoviet.com.vn

Về các chính sách kinh tế - xã hội - môi trường của EU và OECD và hàm ý cho Việt Nam

Về chính sách kinh tế

Hướng đến mục tiêu phát triển bền vững (PTBV), các quốc gia thành viên EU và OECD cố gắng xây dựng một chính sách kinh tế bảo đảm các khuôn khổ tin cậy, tạo ra sự năng động của mỗi một nền kinh tế với khả năng cạnh tranh mạnh mẽ, đáp ứng các chỉ tiêu kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Chính sách việc làm bảo đảm cân bằng có việc làm cho người lao động, với các quy định về thị trường việc làm thuận lợi nhất cho cung gặp cầu để giải quyết các vấn đề thất nghiệp, thu nhập thấp, không ổn định…, nhất là phải tạo ra việc làm dài hạn cho người lao động, không để thất nghiệp ở độ tuổi thanh niên. Chính sách thuế bảo đảm mục tiêu công bằng và cạnh tranh của nền kinh tế và thu ngân sách. Chính sách tài khóa bảo đảm ngân sách bền vững và nợ công được quản lý tốt. Chính sách nghiên cứu và phát triển thúc đẩy và hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo công nghệ, thúc đẩy việc giới thiệu các sản phẩm mới ra thị trường. Chính sách tài chính quốc tế bảo đảm xây dựng các quy định tích cực và giám sát tài chính quốc tế.

Từ kinh nghiệm của các quốc gia thành viên EU và OECD, Việt Nam cần xây dựng một khuôn khổ chính sách kinh tế bảo đảm tin cậy, mang tính kiến tạo của một nền kinh tế cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”(1). Từ đó, có thể nhận thấy, các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách kinh tế để PTBV ở Việt Nam là:

Thứ nhất, các chính sách, pháp luật về kinh tế vĩ mô tôn trọng các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về tăng trưởng, lạm phát, vốn tài chính, lãi suất, tỷ giá hối đoái,… tạo điều kiện cho PTBV. Chẳng hạn, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên sang mô hình tăng trưởng dựa vào công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao với năng suất lao động ngày một tăng. Cơ cấu lại, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cùng hoạt động trong một môi trường kinh doanh chung...

Thứ hai, các chính sách việc làm có mục tiêu bảo đảm giảm tỷ lệ thất nghiệp (hiện số người thất nghiệp là 1,11 triệu người, chiếm 2,02% dân số), nhất là các giải pháp chính sách cần tạo ra việc làm dài hạn và bảo đảm việc làm cho thanh niên (hiện số thanh niên thất nghiệp là khoảng 575,1 nghìn người, chiếm tỷ lệ 7,67% tổng số thanh niên). Chính sách việc làm cần thúc đẩy sử dụng lao động chưa có kỹ năng, lao động khuyết tật trên cơ sở xem xét các quy định về mức lương cơ sở, chống sa thải lao động…, để bảo đảm các quyền của người lao động.

Thứ ba, các chính sách thuế cần bảo đảm cân bằng giữa 3 mục tiêu: công bằng xã hội; sự cạnh tranh của nền kinh tế; thu ngân sách.

Thứ tư, chính sách tài khóa bảo đảm thu ngân sách nhà nước ổn định, thống nhất và quản lý tốt chi tiêu ngân sách, giảm nợ công, xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn, dài hạn.

Thứ năm, chính sách khoa học - công nghệ và sáng tạo hỗ trợ dung dưỡng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp nhằm tạo ra công nghệ sản xuất mới, thúc đẩy việc tạo ra những sản phẩm mới và hỗ trợ đưa sản phẩm mới ra thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ sáu, chính sách tài chính quốc tế cần có sự tích cực tham gia đóng góp cho thể chế tài chính quốc tế cũng như tham dự giám sát hệ thống tài chính toàn cầu.

Về chính sách xã hội

EU và OECD xây dựng các chính sách xã hội có mục tiêu tổng quát là bình đẳng và công bằng xã hội. Chính sách giáo dục bảo đảm cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo chất lượng cao và công bằng. Chính sách phúc lợi xã hội bảo đảm thúc đẩy các cơ hội một cách công bằng cho tất cả các thành phần trong xã hội và phòng ngừa nghèo đói; người dân ngày càng hài lòng với chất lượng cuộc sống. Chính sách y tế bảo đảm cung ứng dịch vụ y tế chất lượng cao, bao trùm và bảo đảm chi phí hiệu quả trong cung ứng dịch vụ y tế. Chính sách gia đình bảo đảm tối đa hóa các cơ hội cho cả bố mẹ, xây dựng hệ thống xã hội hỗ trợ gia đình và trẻ em. Chính sách lương hưu được thiết kế bảo đảm sự bền vững của tài chính và công bằng giữa các thế hệ. Các chính sách giáo dục, văn hóa, xã hội thúc đẩy đoàn kết thống nhất giữa dân tộc và cộng đồng nhập cư. Chính sách an ninh nội địa bảo vệ người dân khỏi tội phạm, lực lượng an ninh được người dân tin cậy, người dân cảm thấy an toàn. Chính sách đối ngoại giải quyết những vấn đề về công bằng xã hội toàn cầu hoặc tích cực tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu.

Ở nước ta, Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, đề ra mục tiêu: đến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Như vậy, các chính sách xã hội xác định mục tiêu thúc đẩy một xã hội tiến bộ, bình đẳng và công bằng; hướng tới mục tiêu tổng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ thể:

Một là, chính sách giáo dục bảo đảm cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo bình đẳng, chất lượng cao cho mọi người dân Việt Nam. Đó là nền giáo dục sử dụng hiệu quả các nguồn lực và phân bổ các nguồn lực giáo dục cho các bậc học, vùng, miền, giáo dục và đào tạo; xây dựng một lực lượng lao động chất lượng cao với kiến thức và kỹ năng tốt đóng góp tích cực hình thành một nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, chính sách xã hội bảo đảm mục tiêu bao trùm, tăng cường hòa nhập xã hội và đoàn kết, bảo đảm không ai bị tách ra khỏi xã hội. Cụ thể là phúc lợi, an sinh xã hội được bảo đảm cho mọi người, thúc đẩy công bằng cơ hội trong xã hội, không để ai tụt hậu lại phía sau, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng trong xã hội về thu nhập, cơ hội phát triển, bình đẳng giới, đa số người dân ngày càng hài lòng với cuộc sống.

Ba là, chính sách y tế bảo đảm cung ứng dịch vụ y tế chất lượng cao và bao quát, đạt chi phí hiệu quả cao. Chi phí cho các chương trình y tế và y tế dự phòng cần phải ngày càng tăng trong cơ cấu chi phí y tế, trong khi hiện nay mức chi y tế của Việt Nam thuộc hàng cao trong khu vực - đạt 12,2%/GDP (cao hơn so với một số nước ở châu Á, như Ma-lai-xi-a, Xing-ga-po, Thái Lan, Trung Quốc và chỉ thấp tỷ lệ chi của Cam-pu-chia, Hàn Quốc, Nhật Bản; các quốc gia thành viên EU và OECD có mức chi khoảng 10,6%/GDP).

Bốn là, chính sách gia đình bảo đảm tối đa hóa cơ hội cho bố mẹ; cho phép người phụ nữ kết hợp cả việc thực hiện thiên chức người phụ nữ và phát triển sự nghiệp của họ. Hệ thống tối ưu của chính sách gia đình là cho phép người phụ nữ quyết định lựa chọn việc tuyển dụng toàn thời gian hay bán thời gian để có điều kiện chăm sóc gia đình. Giải pháp chính sách còn nằm ở hệ thống cung ứng dịch vụ hỗ trợ gia đình và chăm sóc trẻ em trong thực tiễn.

Năm là, chính sách lương hưu được thiết kế bảo đảm sự bền vững của tài chính là rất quan trọng, do đó điều chỉnh bảo hiểm xã hội là rất cần thiết, bên cạnh đó chính sách lương hưu phải nhắm đến phòng ngừa nghèo đói và bảo đảm công bằng giữa các thế hệ. Chính sách lương hưu ở nước ta cần bảo đảm cùng lúc 3 mục tiêu là bền vững quỹ lương hưu, giảm nghèo và bảo đảm công bằng giữa các thế hệ.

Sáu là, chính sách an ninh trong nước có mục tiêu bảo vệ công dân an toàn trước mọi tội phạm. Lực lượng an ninh cần nhận được sự tin tưởng cao của xã hội trong việc tạo ra môi trường xã hội an toàn, ít rủi ro với công dân. PTBV yêu cầu đặt an ninh con người lên hàng đầu, bao gồm an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng, an ninh chính trị.

Bảy là, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách “đền ơn, đáp nghĩa” và chính sách công tác xã hội mang tính đặc thù ở nước ta đã được hoạch định trong Nghị quyết số 15-NQ/TW: Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, bảo đảm gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.

Tám là, chính sách xã hội hướng tới việc Việt Nam tham gia cộng đồng quốc tế tích cực và cam kết tham gia giải quyết những vấn đề công bằng toàn cầu, thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế - xã hội cho các dân tộc trên thế giới.

Về chính sách môi trường

Các chính sách môi trường giải quyết hiệu quả những vấn đề thách thức PTBV là kinh nghiệm PTBV ở các quốc gia thành viên EU và OECD. Các chính sách môi trường phải bảo đảm gìn giữ và bảo vệ được tài nguyên và bảo đảm chất lượng môi trường. Các vấn đề tài nguyên và môi trường được chú ý là năng suất năng lượng và năng lượng tái tạo, nước sạch, chất thải tái chế, đa dạng sinh học, kiểm soát khí phát thải gây “hiệu ứng nhà kính”. Các quốc gia EU và OECD còn hướng đến bảo vệ môi trường toàn cầu và chống biến đổi khí hậu và gìn giữ nguồn tài nguyên toàn cầu.

Mục tiêu chính sách môi trường ở nước ta là bảo vệ và gìn giữ hiệu quả sự bền vững của nguồn tài nguyên và bảo đảm chất lượng môi trường sống cho con người. Các giải pháp chính sách môi trường cần dựa trên cách tiếp cận hệ thống: một mặt, hạn chế và kiểm soát các hoạt động do con người gây hại cho môi trường; mặt khác, thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường, sử dụng nguyên liệu tái chế, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, bảo vệ nguồn nước sạch, diện tích rừng và đa dạng sinh học. Công cụ chính sách môi trường quan trọng là các quy định về giảm khí phát thải gây “hiệu ứng nhà kính”.

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. (...) Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên, nhất là hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, thảm thực vật biển giảm cả về diện tích và chất lượng. Công tác bảo vệ rừng còn bất cập, tình trạng chặt phá và cháy rừng còn xảy ra. Nhiều loài sinh vật, nguồn gen quý đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao”(2).

Những giải pháp PTBV trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu là: Xây dựng kết cấu hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững. Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; bảo đảm môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng. Bảo đảm mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững và ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai. Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, khai thác hiệu quả biển và nguồn lợi biển. Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất. Những hoạt động của con người gây ra ô nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến PTBV phải được loại bỏ.

Về nhóm các giải pháp đóng vai trò điều kiện, nhân tố ảnh hưởng và hàm ý với Việt Nam

Về năng lực hành pháp và trách nhiệm của chính phủ

Năng lực hành pháp và trách nhiệm của chính phủ từ mỗi quốc gia thành viên EU và OECD đều gây ảnh hưởng lớn đến PTBV. Thể chế nhà nước, thể chế hành chính quyết định năng lực hành pháp và trách nhiệm của chính phủ. Đồng thời, sự tham gia của xã hội (người dân và cộng đồng, truyền thông và dư luận xã hội…) ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm của chính phủ với các quyết sách. Từ kinh nghiệm của các quốc gia thành viên EU và OECD, hàm ý cho Việt Nam xây dựng tập hợp các năng lực hành pháp và trách nhiệm sau:

Về năng lực hành pháp, trước hết, đó là năng lực của Chính phủ ra các quyết định chiến lược quốc gia. Các quyết định này được hỗ trợ bởi quá trình lập kế hoạch chiến lược và sự tham mưu của đội ngũ chuyên gia cố vấn. Hiện nay, Việt Nam cần tăng cường năng lực lập kế hoạch chiến lược. Chính phủ đã có một tổ tư vấn gồm 15 người, nhưng phạm vi quyết định chiến lược của Chính phủ là rất rộng, cho nên rất cần sự tham gia của nhiều hơn những chuyên gia hàng đầu. Việc tham mưu cố vấn cho quyết sách của Chính phủ nên dựa trên cơ sở chịu trách nhiệm cá nhân, thậm chí là có chuyên gia quốc tế tham gia tư vấn những quyết định chiến lược ở tầm quốc tế.

Năng lực hành pháp thể hiện ở khả năng điều phối và kết hợp giữa các bộ, ngành trong quá trình ra quyết định chiến lược hoặc giải quyết các vấn đề chính sách cho PTBV. Thể chế hành chính nhà nước quyết định khả năng điều phối này, do đó nâng cao các quy định chính thức về cơ chế điều hành chính phủ và phát huy những quy tắc chuẩn mực phi chính thức có ích cho việc phối kết hợp sẽ giúp các bộ, ngành cùng giải quyết một vấn đề chính sách hiệu quả hơn. Để đạt được kết quả chính sách, Chính phủ cần tham vấn các chủ thể kinh tế - xã hội trước khi quyết định chính sách. Chính phủ cần thực hiện truyền thông chính sách bảo đảm sự đồng thuận và gắn kết chính sách với chiến lược phát triển. Chính phủ Việt Nam cũng cần hợp tác với chính phủ các nước khác và thích ứng với những vấn đề phát triển mới trong giải quyết các vấn đề PTBV.

Trách nhiệm của Chính phủ, hay mức độ trách nhiệm của Chính phủ quyết định bởi sự tham gia của xã hội trong xây dựng chính sách công ở nước ta. Hiện nay, do năng lực tham gia của xã hội trong xây dựng chính sách và sự am hiểu về chính sách công còn hạn chế gây ảnh hưởng đến trách nhiệm của Chính phủ. Do đó, truyền thông chính sách nâng cao sự hiểu biết chính sách là rất quan trọng; thể hiện bằng chỉ số đo lường năng lực tham gia của các chủ thể xã hội. Truyền thông chính sách ở nước ta đồng thời có vai trò to lớn bảo đảm cho trách nhiệm của Chính phủ với PTBV, thông qua cung cấp đầy đủ thông tin cho công chúng đánh giá những quyết sách của Chính phủ để cả xã hội đánh giá hiệu quả của những quyết sách đó đối với PTBV.

Cơ cấu tổ chức và nguồn lực của các cơ quan Quốc hội rất quan trọng trong bảo đảm trách nhiệm của Chính phủ. Hội đồng dân tộc, Các Ủy ban Quốc hội, đại biểu Quốc hội cần có đủ phương tiện, nguồn lực và tổ chức để giám sát các hoạt động hiệu quả của Chính phủ. Từ việc yêu cầu Chính phủ cung cấp tài liệu về thực hiện chính sách công, cơ quan lập pháp có thể triệu tập các bộ trưởng liên quan, triệu tập chuyên gia trong lĩnh vực, ngành thuộc chính sách mà Quốc hội quan tâm. Sự hỗ trợ của các cơ quan kiểm toán, thanh tra để tiếp nhận, xử lý những yêu cầu của công dân làm tăng trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, ngành. Việc quyết định những vấn đề kinh tế - xã hội, đặc biệt là quyết định về công tác cán bộ giữ các vị trí quan trọng ở các bộ, ngành liên quan nhiều đến phát triển kinh tế - xã hội và lãnh đạo các địa phương cần được công khai, minh bạch. Sự tham gia của các hội khoa học trong đề xuất, phản biện và đánh giá chính sách làm tăng trách nhiệm của Chính phủ trong xây dựng và thực hiện chính sách.

Về tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa

Chất lượng dân chủ ngày càng một tốt hơn chính là nền tảng môi trường ổn định và dân chủ là điều kiện căn bản cho PTBV ở nước ta. Các giải pháp vừa bảo đảm ổn định chính trị, vừa tăng cường mở rộng dân chủ là:

Thứ nhất, bầu cử tìm ra được những nhà lãnh đạo có tâm - tài, với ý tưởng chính sách công tốt là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự PTBV của mỗi quốc gia thuộc EU và OECD. Ở các nước thành viên EU và OECD, 4 nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc tổ chức định kỳ, nguyên tắc tự do, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc cạnh tranh. Bốn nguyên tắc bầu cử cơ bản ở nước ta là: Nguyên tắc phổ thông, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc trực tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín đã được luật hóa, tuy nhiên cần bổ sung nguyên tắc cạnh tranh.

Thứ hai, mở rộng tiếp cận với thông tin tự do. Sự tham gia của truyền thông giúp cho người dân hiểu rõ quá trình ra quyết định, thực hiện chính sách, thậm chí tham gia phản biện và đánh giá chính sách, đóng góp nâng cao năng lực hành pháp và trách nhiệm của Chính phủ.

Thứ ba, quyền công dân và quyền con người được tôn trọng và bảo vệ bởi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là điều kiện quan trọng cho PTBV. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân, theo phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người. Đến nay, quyền con người đã được thể chế hóa qua sửa các luật để thực thi trong thực tế(3).

Thứ tư, thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vận hành trong thực tế là điều kiện bảo đảm cho PTBV. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng xác định phương hướng hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Văn kiện Đại hội XII của Đảng yêu cầu phải: Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp(4), việc phân định rành mạch quyền của các nhánh quyền lực gắn với trách nhiệm thực hiện là điều kiện quan trọng kiểm soát quyền lực, xa hơn là bảo đảm PTBV ở nước ta. Hơn nữa, thực hiện phương hướng trên bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong thực tế để PTBV ở nước ta./.

----------------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102 - 103
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 258
(3) Xem: Nguyễn Thanh Tuấn: “Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013”. Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 30-9-2014, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/29480/Quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-trong-Hien-phap-nam-2013.aspx
(4) Xem: Trần Đại Quang: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 891 (1-2017)

Đỗ Phú HảiPGS, TS, Giảng viên cao cấp

Nguồn Tạp chí cộng sản: http://www.tapchicongsan.org.vn/home/doi-ngoai-va-hoi-nhap/2018/51503/mo-hinh-phat-trien-ben-vung-cua-eu-va-oecd-va-ham.aspx