Mê Linh bất khuất (Kỳ 8)

Trân trọng giới thiệu tiếp bài viết của PGS TS Cao Văn Liên 'Mê Linh bất khuất' trong chương II - Tập I Tiểu thuyết Lịch sử 'Nghìn năm bất khuất' trong 'Việt Nam Diễn Nghĩa' của NXB Hồng Đức-HN-2019.

Ảnh minh họa. Trưng Trắc, Trưng Nhị lớn lên thành những thiếu nữ xinh đẹp lại giỏi võ nghệ cùng khả năng lãnh đạo kiệt xuất đủ để kế thừa ý chí của mẹ. (Ảnh: britannica.com)

Kỳ 8.

Tô Định gật gù:

-Vậy thì quyết chiến một trận xem sao. Mở cổng thành nghênh chiến nữ tặc!

Cổng thành phía Tây Luy Lâu hạ xuống vắt ngang sông Dâu tạo nên cái cầu gỗ lim rộng, dày chắc chắn. Tô Định mặc áo xanh, giáp sắt, mũ đâu mâu sắt nhọn từ trong thành cùng các tướng trên mình những chiến mã lao ra như gió. Theo sau là 3 vạn quân Đông Hán quân phục màu đen, gươm, giáo, mác, búa, lưng đeo cung tên tràn ra như thác. Trên đầu những lá cờ vàng có chữ Hán màu đen bay theo gió.Tô Định dàn thế trận chữ nhất, quát to:

-Tướng Mã Giang Long ra bắt nữ tặc cho ta.

Mã Giang Long cưỡi ngựa đen, múa họa kích xông ra. Bên quân Việt Đại tướng tiền quân Hàn Hãn thúc ngựa màu nâu múa gươm xông ra. Hai ngựa xáp vào nhau, hai đại tướng cách nhau một cánh tay, họa kích chạm gươm tóe lửa. Hai ngựa bị ghì cương chồm hai vó trước lên. Khi vó ngựa chạm đất, hai tướng lại đánh nhau. Tiếng chiêng, tiếng trống da bò của quân Hán, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống đồng bên quân Việt hòa với tiếng reo hò của hạng vạn người làm rung chuyển không gian vùng Luy Lâu,Vũ Ninh. Đang khi đó Trưng Trắc trên mình voi ra lệnh:

-Bắn tên lửa!

Một phát tên có chứa chất cháy được châm lửa bắn lên tạo nên một bó đuốc trên không trung.

Tô Định và quân Hán còn đang ngơ ngác thì từ hai bên tả hữu quân Hán, từ các bãi dâu không xa, quân Việt mai phục xuất hiện và tràn như vũ bão đánh vào tả hữu quân Hán. Trưng Trắc trên mình voi phất cờ, toàn quân Việt phía đối diện quân Hán nhất tề xông lên cùng hai cánh quân tả hữu chém giết quân Hán như gió lốc. Quân Hán bị đánh cả ba bên, thế trận tan vỡ quay đầu tháo chạy về Luy Lâu. Tô Định được các tướng hộ vệ cùng một vạn quân chạy được vào thành. Còn những tên chạy sau bị quân Việt chém như phạt chuối. Xác và máu giặc ngập đỏ suốt một dặm vuông, dọc bờ sông Dâu máu chảy đầm đìa như suối, xác giặc chết chồng lên nhau đủ kiểu. Bên quân Việt cũng mất 500 người. Trưng Trắc dàn quân bao vây bốn mặt thành Luy Lâu, bên ngoài lũy tre dày đặc.

Quân Việt bao vây Luy Lâu nhưng cũng chỉ ngoài lũy tre gai dày đặc, bên trong là những hào nước rộng như sông bảo vệ thành. Trên mặt nước, dày đặc những chiến thuyền quân Hán canh giữ. Trên mặt thành là đá, tên cung nỏ, dầu chất cháy sẵn sàng châm lửa ném xuống. Suốt một đêm trong tổng hành dinh Trưng Trắc và Trưng Nhị cùng các tướng suy nghĩ cách phá thành. Các nữ tướng ngồi đăm chiêu trên hai hàng ghế. Trưng Trắc lúc ngồi, lúc đứng, lúc chắp tay sau lưng đi lại, lúc cúi xuống nhìn chăm chăm vào bản vẽ của thành Luy Lâu. Chủ soái đã nhai không biết bao nhiêu miếng trầu cau, không rõ đã uống bao nhiêu bát nước lá vối do nữ binh hầu cận đưa lên. Đêm về khuya. Gió rét của tháng ba lạnh buốt xương. Những ánh lửa bập bùng của các trại quân bao vây Luy Lâu tạo những mảng vàng xé nát màn đêm. Trưng Trắc nhìn rất lâu vào các đóm lửa. Thốt nhiên Chủ soái reo lên:

-Có rồi. Hỏa công.

Trưng Nhị hỏi:

-Thưa chị, hỏa công nhưng đốt cái gì và đánh thế nào khi quân ta không thể lọt qua lũy tre này ạ?

Trưng Trắc đáp;

-Dùng rơm rạ chất cao lên đốt cháy toàn bộ lũy tre, phá tan chiến lũy thứ nhất để quân ta tiếp cận đốt cháy thủy quân địch, tiêu diệt thủy quân, sau đó thủy quân ta tiến vào đốt cổng thành địch, trèo tường vượt thành vào bên trong mà đánh. Tất cả đều dùng hỏa công.

Trưng Trắc ra lệnh:

-Trong ngày mai, các tướng đem một ít quân vào các xóm làng vận động nhân dân đóng góp rơm rạ và chất cao vào các lũy tre chờ lệnh. Còn tiểu muội Trưng Nhị đi chỉ huy thủy quân, ra lệnh cho đạo thủy binh của Đại Tướng Hùng Bàn bịt phía Bắc sông Dâu, đạo thủy binh của Phật Nguyệt, Xà Nương bịt phía Nam sông Dâu, không cho tàn binh thủy quân địch tháo chạy ra sông Đuống, sông Hồng. Sau khi hỏa công tiêu diệt thủy binh xong, đạo của Hùng Bàn công phá cổng thành phía Tây trên sông Dâu, đạo của Phật Nguyệt công phá cổng thành phía Đông và dùng thuyền chở bộ binh tiến vào thành.

Trưng Trắc nói thêm: -Hai đạo thủy binh cho người lên bờ nhờ dân làng giúp rơm rạ, ván, lạt tre, buộc rơm vào các tấm ván bện rơm tẩm nước, Khi tiến vào phá cổng thành phải cử quân khỏe mạnh, ghép các tấm ván thành áo giáp che chắn tên đạn địch để hạn chế thiệt hại, để vô hiệu hóa hỏa lực của đối phương trên mặt thành ném xuống.

Trưng Trắc truyền quyết tâm cho các tướng:

-Trong thành còn một vạn tên và những tướng lĩnh nhưng đã bị trận thất bại vừa rồi làm mất tinh thần. Thành Luy Lâu kiên cố chỉ còn tồn tại đêm nay thôi. Ngày đền tội của bọn Tô Định đã đến rồi.

Các tướng dạ ran và tản về các trại quân chuẩn bị. Trống ở tổng hành dinh đã điểm canh ba. Xa xa, trong các làng có tiếng chó sủa và tiếng gà gáy eo óc, rồi làng xóm mênh mông lại im lìm chìm trong một màn đen thẫm. Những ruộng dâu bát ngát mênh mông uốn mình xạc xào theo gió.

Lại một ngày mùa xuân qua đi nhanh chóng. Đêm xuống.Bóng đêm tràn ngập khắp nơi. Nhưng Luy Lâu và vùng ngoại vi không yên tĩnh. Quân Việt bao vây thành Luy Lâu bên ngoài các lũy tre đã sẵn sàng chiến đấu. Dưới gốc các lũy tre bao quanh hào sông đã chất đầy rơm rạ cao như núi, bao bọc đến 1/3 chiều cao của tre.

Trưng Trắc hạ lệnh:

-Lệnh cho hai đạo thủy quân bịt hai đầu sông Dâu không cho địch chạy thoát.Tất cả đồng loạt châm lửa đốt.

Quân Việt bốn phía dạ ran, châm lửa và ném những bó đuốc vào núi rơm rạ quanh lũy tre. Rơm rạ cháy làm cho tre cũng bốc cháy, phút chốc tạo nên một vòng núi lửa cáo ngút trời cháy rần rật soi sáng suốt hàng dặm của đất Luy Lâu, Vũ Ninh, khói và tàn lá tre bay mù mịt đất trời. Tre già bị cháy liên tục nổ vang như pháo lớn. Đất trời vàng rực trong cơn hỏa công dữ dội và vang động trong tiếng nổ của tre cháy, của tiếng thanh la, tù và tiếng trống đồng của quân Việt nghe như trời long đất lở. Thủy binh Hán không chịu nổi sức nóng của vành đai lửa táp xuống, từ thuyền cho đến vũ khí, trang phục trên thuyền đều nóng như rang, nhiều tên đã chết ngất, nhiều tên đã lao xuống nước. Thủy binh Hán cố thoát ra sông Hồng, sông Đuống nhưng hai đầu sông Dâu đã bị thủy quân Việt khóa chặt không tài nào ra nổi. Đến giữa trưa, chiến lũy tre bốn mặt hào thành chỉ còn là những đống tro tàn, những thân tre cháy đen sì gục xuống ngốn ngang, tạo khoảng trống cho quân Việt trên bờ bắn tên lửa xuống chiến thuyền quân Hán. Bị rang nóng suốt nửa ngày, dễ bén lửa, chiến thuyền quân Hán bốc cháy ngùn ngụt trên sông hào, lại thêm tên đạn của quân Việt bốn phía trên bờ bắn xuống như mưa, nước như sôi lên, chiến thuyền đen thui chìm xuống, xác quân Hán dày đặc dập dềnh chìm nổi lấp kín bốn dòng sông hào ngay dưới chân thành, máu nhuộm đỏ nước. Quân Hán trên thành đứng nhìn đồng đội chết mà không thể nào cứu được, lại không dám mở cổng thành cho thủy quân thoát vào sợ bị quân Việt vào thành.Nhìn thủy quân chết thảm, quân trong thành cũng hoảng loạn. Thành Luy Lâu chưa thất thủ nhưng quân Hán đã hoàn toàn sụp đổ về tinh thần.Những tên sống sót cố bơi vào bờ thì bị quân Việt bắt sống, chúng lạy như tế sao để mong quân Việt ban cho sự sống.

Thế lực công thành của quân Việt càng mạnh thêm do được thêm các đạo quân của nữ tướng Lê Chân ở An Biên, tướng Hồ Đề ở Long Uyên, Hàn Quỳnh Nương ở Chu Diên, Lê Thị Hoa, Đào Kỳ, Phương Dung ở Cửu Chân kéo về tiếp sức. Lê Chân sau khi lãnh đạo nhân dân lật đổ ách thống trị của nhà Đông Hán ở An Biên, đã theo sông Bạch Đằng vào Lục Đầu Giang, tiến về Vũ Ninh, góp sức cùng Chủ soái hạ thành Luy Lâu. Khâu Ni công chúa cũng đem quân về trợ chiến. Ngày hôm sau, Trưng Trắc hạ lệnh cho thủy binh tấn công với nhiệm vụ là đốt phá cổng thành để đưa bộ binh, thủy binh đánh thành. Nhận được lệnh, Hùng Bàn và Phật Nguyệt đã cho nhiều thuyền kết lại với nhau thành nhóm cho vững chắc, cử những thủy binh khỏe mạnh nâng những tấm ván bện rơm tẩm nước ghép lại thành những bức tường che chắn tên đạn quân Hán trên thành bắn xuống để hạn chế thương vong. Những nhóm thuyền của đạo thủy binh Hùng Bàn được che chắn chèo như bay tiến vào sông Dâu, cổng thành phía Tây, nhóm thuyền của thủy quân Phật Nguyệt tiến vào hào thành cửa phía Đông. Quân Hán trên mặt thành bắn tên, ném đá, đổ chất cháy xuống như mưa quyết liệt chống cự nhưng đã bị những mánh giáp ván bện rơm dầy tẩm nước vô hiệu hóa.Thủy quân Việt tiếp cận được cổng thành, tưới chất cháy và đốt. Cổng thành phía Đông và phía Tây cháy ngùn ngụt và được mở toang. Thủy quân Việt dùng thuyền làm cầu cho bộ binh và thủy binh xông vào thành. Trong thành vô cùng hỗn loạn, chiêng, trống đồng, thanh la, tù và vang dội cùng với tiếng reo giết giết của quân Việt, khói lửa mù mịt, đất trời rung chuyển. Quân Hán tan vỡ, bị quân Việt chém như chuối đổ. Các nữ tướng quân Việt xông pha, tả xung hữu đột, phi ngựa trong đám loạn quân cùng bộ binh, thủy binh Việt chém giết quân Hán, người và ngựa như tắm máu quân Hán, thả sức phanh thây xé xác quân thù, rửa mối hận nước thù nhà suốt 200 năm trời mất nước.

Trong một góc thành, nữ tướng Phùng Thị Chính đang giao chiến kịch liệt với tướng giặc Đề Hồ Điển. Tướng giặc núng thế bỏ chạy. Thốt nhiên, Phùng Thị Chính đau bụng. Các nữ binh giúp bà xuống ngựa. Thì ra nữ tướng vỡ ối sắp sinh con. Các nữ binh trải chiến bào, đứng quây lại thành vòng tròn, gươm tua tủa chĩa ra ngoài bảo vệ giúp cho bà sinh con. Giữa chiến trường hỗn loạn chết chóc, tiếng khóc chào đời của đứa trẻ vang lên. Có tiếng một nữ binh reo lên:

-A! Con trai, chủ tướng sinh con trai!!

Phùng Thị Chính dùng gươm lau sạch cắt rốn cho con, dùng dây vải buộc rốn lại, bọc áo chiến bào buộc con về trước bụng, lên ngựa lại tiếp tục tả xung hữu đột giết giặc. Cơn lốc chém giết mãi tới chiều tối mới kết thúc. 1 vạn quân Hán và các tướng Hoàng Sùng Chính, Mã Giang Long, Hoàng Đức Tổ, Lưu Đại Hải đều tử trận. Trưng Trắc ra lệnh tìm trong hàng vạn xác chết có tên Tô Định hay không, kẻ thù chính của hai họ Thi-Trưng và của bách tính dân Việt. Trong phòng Thái thú chỉ còn lại bộ râu cắt ra khỏi hàm, mũ mãng cân đai quần áo của Tô Định. Có lẽ hắn đã giả trang thành một tên lính và lẻn ra ngoài thành trốn về Trung Quốc trước khi thành Luy Lâu thất thủ.

Trưng Trắc ra lệnh cho quân Việt không được giết tù binh, không được phá hoại các công trình văn hóa Hán, Việt trong thành, cũng ra lệnh cho khắp các quận huyện không được giết hại binh lính, quan lại và dân Hán. Luy Lâu thất thủ đánh dấu nền cai trị của nhà Hán từ Nam Trường Giang ở phía Bắc đến Hoành Sơn ở phía Nam sụp đổ. Từ Tổng hành dinh Luy Lâu, Trưng Trắc đã nhận được tin chiến thắng từ khắp các quận, huyện đưa về. Tại quận Giao Chỉ: Vùng Bạch Hạc Nàng Nội đã làm chủ, nữ tướng Lê Ngọc Trinh đã làm chủ ở vùng sông Gâm, sông Chảy, sông Lô, miền Tây Mê Linh.Tướng Hồ Đề đã thắng lợi ở Long Uyên, sau đó Hồ Đề đã kéo quân về trợ chiến ở Luy Lâu. Các nữ tướng như bà Chúa Bầu, Ả Huyền, Ả Tú đã phối hợp với các tướng người Tày làm chủ ở rừng núi Long Uyên, Các tướng Hồng Nương, Đạm Nương, Thanh Nương chiến thắng ở Câu Lậu. Vương Thị Tiên làm chủ ở Bình Bình, An Bình Lý làm chủ ở Tam Dương, huyện Mê Linh, Thánh Thiên làm chủ ở huyện Kê Từ, Vĩnh Huy làm chủ ở Đà Tổ, Tây Vu, Lê Thị Lan làm chủ ở Tây Vu, Hàn Quỳnh Nương lật đổ quân Hán ở huyện Chu Diên, sau đó kéo quân về cùng công phá Luy Lâu,Vũ Thị Thục làm chủ ở An Định. Trần Quốc làm chủ Cổ Loa, Lê Chân làm chủ An Biên, huyện Khúc Dương, Quận Giao Chỉ và cũng kéo quân về hợp sức đánh Luy Lâu.

Ở quận Cửu Chân, Lê Thị Hoa, Đào Kỳ, Phương Dung đã lật đổ ách cai trị của Đông Hán và về Luy Lâu cùng đánh phá thành trì, Ở quận Nhật Nam,các tướng Thị Quỳnh (nàng Quỳnh), Thị Quế (nàng Quế) làm chủ quận Nhật Nam và phía trong dãy Hoành Sơn. Ở Hợp Phố và Nam Trường Giang, Đàm Ngọc Nga làm chủ Khúc Giang, quận Hợp Phố, các tướng Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống, Đào Tam Lang làm chủ ở Bồ Lăng (Ô Giang, Trùng Khánh), Trần Phương Châu làm chủ Khúc Giang.Sa Giang, người Hán theo Trưng Trắc làm chủ ở Trường Sa. Đô Thiên, người Hán theo Trưng Trắc làm chủ ở Trường Sa. Như vậy, chỉ sau hai tháng, dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc, Trưng Nhị và các tướng lĩnh, nhân dân Bách Việt đã vùng dậy lật đổ ách thống trị của nhà Đông Hán, làm chủ 65 thành trì từ Nam Trường Giang, Ngũ Lĩnh đến tận Hoành Sơn quận Nhật Nam.

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/me-linh-bat-khuat-ky-8-73587