Lục bát Xuân Hòa

Tôi đọc thơ Xuân Hòa đã lâu, từ khi anh là phóng viên Báo Quân khu 7 sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi thích sự mềm mại, uyển chuyển trong thơ Xuân Hòa.

Xuân Hòa cũng như nhiều nhà thơ khác xuất thân từ làng quê, trăn trở trước nhân tình thế thái và đặc biệt tình yêu giống nòi, cha mẹ, người thân và quê hương xứ sở.

Tập thơ mới của ông Chốn quê (NXB Hội Nhà văn, 2020) có 80 bài, được Xuân Hòa sáng tác trong vài năm trở lại đây. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tập thơ là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình vợ con và những người thân yêu, ruột thịt. Tôi không có ý định chia sẻ hết ý tứ, thông điệp của tác giả mà chỉ mạn đàm về các bài thơ theo thể lục bát của Xuân Hòa.

Gần nửa thế kỷ làm thơ, Xuân Hòa viết nhiều thể thơ, nhưng hình như thành công nhất vẫn là những bài thơ, theo thể lục bát. Sinh ra từ vùng quê thấm đậm làn điệu dân ca quan họ, lại được thực tiễn kháng chiến trui rèn, trời phú cho Xuân Hòa sự mẫn cảm và độ nhạy cần thiết để rung lên tứ và giai điệu thơ. Thực tiễn với bộn bề sự kiện là mảnh đất màu mỡ để Xuân Hòa thai nghén, nuôi dưỡng thơ. Chất dân gian trong thơ Xuân Hòa như là dòng sông Cầu cuộn chảy để chuyển tải tư tưởng, thông điệp của tác giả. Tôi chú ý đến cách lập tứ, dụng ngôn của nhà thơ. Những câu thơ lục bát vốn đậm chất dân gian, bỗng tươi mới như nhụy hoa mới ló, như chiếc bánh mới ra lò: Tôi về về với xa xăm/Con đê, bờ bãi, ánh trăng quê nhà/Hội làng chảy giữa tháng ba/Bâng khuâng câu hát, người xa tôi về (Tôi về)

Chốn quê là tập thơ tả thực, cũng có bài “vén mây ngoạn trăng”. Nhưng dường như Xuân Hòa không có dụng ý ấy mà tiếng thơ thoát ra từ lồng ngực căng tràn ký ức, nơi có trái tim không bao giờ già cả: Hạ vàng, thu thắm, đông sang/Dịu dàng em vẫn nét làng đất quê/Hương thơm tỏa lối đi về/Em là cỏ nội, hương quê nồng nàn (Cỏ nội hương đồng)

Xuân Hòa rất dụng công và có ý thức sử dụng ngôn từ. Đôi khi cực đoan nhưng người đọc hiểu được, chia sẻ được. Xuân Hòa nặng tình với quê hương và đồng đội, nên các tác phẩm thơ của ông cũng thấm đậm nhân tình thế thái: Đảo ngồi, đảo đứng giăng giăng/Kết thành lũy thép chặn ngăn quân thù.../Biển long lanh, nước long lanh/Trăng treo đầu súng, kết thành lũy hoa (Chiều trên đảo Nam Du)

Xuân Hòa không “đao to búa lớn” trong thi ca. Nhưng ý chí, định hướng tư tưởng của ông thì không ai có thể phủ nhận được: Ngàn năm tuổi mãi còn son/Màu áo xanh mãi vẫn còn thanh xuân.../Chân đồi, khe suối bạn tôi/Ngàn bông hoa trắng, ngàn đời tỏa hương (Mãi mãi mùa Xuân).

Đối với Xuân Hòa, tình yêu quê hương đất nước như dòng sông cuộn chảy. Và, đến lượt nó dòng sông cuộn chảy với thể lục bát mượt mà, uyển chuyển lay động lòng người đã nâng Xuân Hòa thành nhà thơ của đồng đội và những người yêu chiến sĩ: Ta về đắp đập, ngăn sông/Như phù sa đọng cho đồng lúa xanh/Ta về tìm lại dấu chân/Tuổi thơ mùa hạ trong ngần tiếng ve (Gửi mùa hạ).

TRẦN THẾ TUYỂN

Nguồn SGGP: http://sggp.org.vn/luc-bat-xuan-hoa-682582.html