Luật Giám định Tư pháp sửa đổi, bổ sung đã 'gỡ khó' cho cơ quan điều tra

Quy định mới này nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người trưng cầu giám định tư pháp trong việc trưng cầu giám định và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định của tổ chức, cá nhân được trưng cầu, thực hiện giám định.

Sau hơn 7 năm thi hành Luật Giám định tư pháp, công tác giám định tư pháp đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, Luật này đã bộc lộ nhiều bất cập trước những yêu cầu mới của đời sống xã hội, của hoạt động tố tụng. Trước yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp và đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 10-6-2020 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2021, đã góp phần tháo gỡ được cơ bản những khó khăn, vướng mắc.

Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã sửa đổi, bổ sung một số nghĩa vụ của người trưng cầu giám định như: xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết; cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp; thực hiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người giám định hoặc người thân thích của người giám định (điểm a, điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 21). Quy định mới này nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người trưng cầu giám định tư pháp trong việc trưng cầu giám định và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định của tổ chức, cá nhân được trưng cầu, thực hiện giám định.

Luật sửa đổi, bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của tổ chức giám định như quyền được yêu cầu người trưng cầu, yêu cầu giám định cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu, mẫu vật cần cho việc thực hiện giám định; từ chối tiếp nhận trưng cầu, thực hiện giám định trong một số trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 24; đồng thời Luật cũng sửa đổi, bổ sung một số nghĩa vụ của tổ chức được trưng cầu, thực hiện giám định tư pháp nhằm tăng cường trách nhiệm và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định của tổ chức này (điểm a, điểm b, điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 24).

Khoản 4 Điều 25 của Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về cơ chế thông tin, phối hợp giữa cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với cá nhân, tổ chức dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan có liên quan về nội dung trưng cầu, thời hạn giám định, thông tin, tài liệu, mẫu vật cần cho việc giám định và các vấn đề khác có liên quan (nếu có) trước khi ban hành Quyết định trưng cầu.

Luật Giám định tư pháp sửa đổi, bổ sung tạo đã khắc phục được nhiều vướng mắc trong công tác giám định

Luật Giám định tư pháp sửa đổi, bổ sung tạo đã khắc phục được nhiều vướng mắc trong công tác giám định

Đồng thời, bổ sung quy định về trưng cầu giám định trong trường hợp nội dung giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn có quan hệ mật thiết với nhau, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức mà việc tách riêng từng nội dung gây khó khăn cho việc thực hiện giám định, ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan của kết quả giám định hoặc kéo dài thời gian giám định thì người trưng cầu giám định phải xác định được nội dung chính cần giám định để xác định cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp; quy định cụ thể trách nhiệm, nguyên tắc phối hợp để triển khai nhiệm vụ giám định, giải quyết các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình trưng cầu, phối hợp triển khai thực hiện giám định.

Khắc phục tình trạng vô thời hạn trong hoạt động giám định

Điều 26a quy định về thời hạn giám định đã khắc phục tình trạng vô thời hạn trong hoạt động giám định của một số vụ án, nhất là án tham nhũng, kinh tế. Theo đó, thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày tổ chức, cá nhân được trưng cầu giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định và kèm theo đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần thiết cho việc giám định. Trường hợp cần phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc giám định thì thời gian bổ sung hồ sơ, tài liệu không được tính vào thời hạn giám định. Thời hạn giám định đối với trường hợp không thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định có thời hạn tối là 03 tháng, nếu có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng… Các quy định mới nêu trên đã cơ bản khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong trưng cầu và thực hiện giám định trong các vụ án, nhất là án tham nhũng, kinh tế.

Để khắc phục một số hạn chế về kết luận giám định tư pháp trong thực tiễn hiện nay, quy định về kết luận tại Điều 32 đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu và nguyên tắc mang tính đặc thù của văn bản kết luận giám định như kết luận giám định phải rõ ràng, cụ thể về nội dung chuyên môn của đối tượng cần giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định; bỏ quy định về chứng thực chữ ký của người giám định theo quy định của pháp luật về chứng thực khi trưng cầu, yêu cầu giám định đích danh cá nhân người giám định; đồng thời, phân định rõ hơn nữa trách nhiệm của người giám định, tổ chức cử người làm giám định trong việc ký, xác nhận chữ ký đối với người giám định trong bản kết luận giám định.

Để Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đi vào cuộc sống, bảo đảm hiệu lực thi hành, phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án, thời gian tới Công an các đơn vị, địa phương cần chú trọng kiện toàn, củng cố tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác giám định tư pháp ở các cấp; tăng cường phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác giám định tư pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, phục vụ có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về lĩnh vực giám định kỹ thuật hình sự; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật được giao, đảm bảo chất lượng. Phối hợp với VKSND tối cao ban hành chỉ tiêu thống kê, thực hiện thống kê hàng năm về trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự gắn với việc thực hiện thống kê hình sự.

Linh Anh

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.vn/luat-giam-dinh-tu-phap-sua-doi-bo-sung-da-go-kho-cho-co-quan-dieu-tra-231172.html