Luật Cảnh sát biển Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt

Chiều 5/11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam (CSBVN). Tại hội trường, các đại biểu khẳng định, Luật CSBVN có tầm quan trọng đặc biệt.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt.

"Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân”

Về vị trí, chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt nêu rõ, quy định “Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân” là kế thừa Pháp lệnh lực lượng CSBVN năm 1998 và năm 2008; thực hiện hơn 20 năm qua không có vướng mắc và đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, phù hợp với một số quy định của pháp luật; đồng thời làm căn cứ pháp lý để xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và là cơ sở xây dựng cơ chế, chính sách, bảo đảm cho hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi để CSBVN hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội giữ như dự thảo Luật Chính phủ trình. Đồng thời, cơ quan này nhận thấy, dự thảo Luật quy định CSBVN là lực lượng chuyên trách của Nhà nước là kế thừa Điều 1 Pháp lệnh CSBVN hiện hành; thể chế hóa Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/2/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định CSBVN là một trong những lực lượng “nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia”; thống nhất với Luật An ninh quốc gia, nhằm khẳng định vị trí, vai trò của CSBVN là một trong những lực lượng chính, chủ yếu trong bảo đảm thực thi pháp luật trên biển.

Đối với Hải quân và Bộ đội Biên phòng, dự thảo Luật đã giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp với CSBVN (khoản 2 Điều 22); đối với Công an, Kiểm ngư, Hải quan … có chức năng, nhiệm vụ riêng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý khoản 1 Điều 3 của Dự thảo luật.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của CSBVN, trình bày của Chủ nhiệm Ủy ban Võ Trọng Việt cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc xây dựng các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của CSBVN phải mang tính bao quát, làm căn cứ xây dựng các điều khoản, bảo đảm tính thống nhất. Nội dung hợp tác quốc tế và phối hợp hoạt động đã được quy định tại Mục 3 Chương III và Chương IV để bảo đảm tính logic, dễ áp dụng. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không bổ sung các nội dung trên.

Đồng thời, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về tổ chức và hoat động của CSBVN như Dự luật là cần thiết, để bảo đảm tính thống nhất trong Luật và cần khẳng định nguyên tắc này trong quan hệ quốc tế; quy định này cơ bản phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân; đồng thời đề nghị không đưa nội dung “chấp hành mệnh lệnh trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng” của CSBVN vào điều luật.

Quang cảnh phiên thảo luận tại hội trường về Luật CSBVN chiều 5/11.

Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật và bảo đảm linh hoạt, chủ động trong quản lý, điều hành của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với tư cách là thành viên Chính phủ, tạo điều kiện cho hoạt động của CSBVN trong hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý nội dung khoản 1 Điều 4 như dự thảo Luật.

Về phạm vi hoạt động của CSBVN, Chủ nhiệm Ủy ban Võ Trọng Việt cho biết, quy định “CSBVN hoạt động trong vùng biển Việt Nam” là kế thừa Pháp lệnh hiện hành; phù hợp đặc điểm, tình hình vùng biển Việt Nam, thực tiễn hoạt động của CSBVN, đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ biển, đảo giai đoạn hiện nay.

Thực tế, một số vùng biển chưa xác định đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải; một số vùng có nội thủy rộng, thường xảy ra nhiều hành vi vi phạm pháp luật, trong khi các lực lượng chức năng khác hoạt động trên biển còn hạn chế. Nếu phân chia phạm vi hoạt động trên từng vùng biển cho các lực lượng sẽ dễ dẫn đến bỏ trống vùng biển, bỏ sót, lọt vi phạm, tội phạm; đồng thời lãng phí nguồn lực và làm hạn chế sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển.

Về sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, theo Chủ nhiệm Ủy ban Võ Trọng Việt, khoản 2 Điều này đã bổ sung các trường hợp nổ súng vào tàu thuyền trên biển, vì Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ chưa quy định. Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý nội dung khoản 1 Điều 11 như sau: “Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động trong vùng biển Việt Nam để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này”.

Do đó, khoản 3 quy định “Trường hợp nổ súng theo quy định tại khoản 2 Điều này, cán bộ, chiến sĩ CSBVN phải cảnh báo bằng hành động, mệnh lệnh, lời nói hoặc bắn chỉ thiên trước khi nổ súng” là cần thiết, phù hợp với Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, tránh áp dụng tùy tiện dẫn đến xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác.

Không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ

Thảo luận tại phiên họp chiều 5/11, nhấn mạnh tình hình vùng biển diễn biến ngày một khó lường, các đại biểu đều thống nhất với sự cần thiết ban hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam; cho rằng việc xây dựng luật bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, nhất là thực hiện Hiến pháp năm 2013 và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của lực lượng CSBVN.

Nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt động của CSBVN là một trong những nội dung được nhiều đại biểu quan tâm.

Đại biểu Bùi Quốc Phòng (Thái Bình), lưu ý đến điều 3, điều 4 của dự thảo Luật, quy định: CSBVN là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển.

CSBVN đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý Nhà nước của Chính phủ và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với phương châm xây dựng lực lượng CSBVN theo hướng cách mạng, chính quy, hiện đại.

"Điều này là hoàn toàn phù hợp, nhằm khẳng định và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, để nâng cao chất lượng của CSBVN, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam", ông Phòng nhấn mạnh.

Đại biểu Bùi Quốc Phòng (Thái Bình).

Còn Đại biểu Võ Đình Tín (Đắk Nông), quan tâm đến chức năng của CSBVN. Đại biểu chỉ rõ, theo quy định tại khoản 2 điều 3 của dự án luật, CSBVN có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính sách, pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển Việt Nam; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật Việt Nam, thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Theo đại biểu này, quy định trên cho thấy chức năng thứ nhất và thứ hai của dự thảo luật đều có quy định về phạm vi để thực hiện chức năng của CSBVN trên biển trong vùng biển Việt Nam. Ở chức năng thứ 3 của dự thảo luật không giới hạn phạm vi, điều này có nghĩa là CSBVN thực hiện chức năng này cả trên không và trên đất liền, sẽ dẫn đến việc chồng lấn chức năng của các cơ quan khác và không thống nhất với quy định tại điều 11 của dự thảo luật về phạm vi hoạt động của lựa lượng này.

Vì vậy, đại biểu đề nghị chỉnh lý khoản 2 điều 3 của dự thảo luật, theo hướng CSBVN có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính sách, pháp luật và chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển Việt Nam; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật Việt Nam, thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên trong vùng biển Việt Nam.

Bên cạnh đó, đại biểu cũng băn khoăn về điều khoản quy định việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam (điều 36). Theo đó, cán bộ, chiến sĩ CSBVN được đào tạo, bồi dưỡng tại cơ sở đào tạo của CSBVN.

Đại biểu đề nghị xem xét lại quy định tại điều luật này, bởi theo đại biểu, quy định này chưa phù hợp với chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và không thống nhất với quy định khác của dự thảo luật.

Việc quy định như điều 36 của dự thảo luật chưa phù hợp với nghị quyết 18 ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về sắp xếp, đổi mới bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, dẫn tới cách hiểu là CSBVN phải có cơ sở đào tạo bồi dưỡng riêng trong khi thực tế hiện nay, CSBVN đã có cơ sở đào tạo trong hệ thống các trường đào tạo của Bộ Quốc phòng.

Đại biểu Võ Đình Tín (Đắk Nông).

Giải trình một số nội dung mà các đại biểu Quốc hội quan tâm, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt nêu rõ, nhiều đại biểu băn khoăn lo lắng về sự chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng hoạt động trên biển, tuy nhiên trong Báo cáo giải trình tiếp thu, vấn đề này đã được chỉnh sửa, nhiệm vụ của từng lực lượng không bị chồng chéo, nhất là giữa cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và kiểm ngư.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban, ngoài một số nội dung cụ thể mà các đại biểu đóng góp ý kiến, Ủy ban Quốc phòng và An ninh sẽ rà soát toàn bộ các điều khoản của Dự luật để đảm bảo quy định rõ ràng, minh bạch, thống nhất, logic.

Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ nêu rõ, sau phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến của các đại biểu Quốc hội để hoàn chỉnh dự thảo Luật và trình Quốc hội xem xét.

Dự thảo Luật cảnh sát biển Việt Nam dự kiến được Quốc hội thông qua vào ngày 20/11.

Trước đó, sáng 5/11, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo về việc kéo dài thời hạn thực hiện Nghị quyết số 30/2016/QH14 về thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam.

Giải trình thêm các vấn đề đại biểu quan tâm, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết, việc thực hiện thí điểm là cải cách hành chính chưa được quy định trong Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Vì thực hiện nằm ngoài phạm vi của Luật nên phải báo cáo Quốc hội ra Nghị quyết để có cơ sở pháp lý thực hiện.

Nguyên nhân của việc không nhiều người nhập cảnh qua cấp thị thực điện tử vì việc này chưa được phổ cập, mới chỉ cấp thị thực điện tử cho công dân 46 nước tại 28 cửa khẩu.

Bên cạnh đó, vì đang thí điểm nên nhiều người nước ngoài cẩn trọng, vẫn nhập cảnh theo hình thức truyền thống. Về thời hạn thí điểm, Chính phủ đề nghị kéo dài thêm 2 năm vì trong thời gian này sẽ sửa Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định “Để tiếp tục thực hiện, về nhân lực, cơ sở hạ tầng hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu, không cần bổ sung theo nhân lực; quốc phòng an ninh đã được đảm bảo, thu được hơn 200 tỷ đồng tiền thuế.

Chính phủ sẽ có đánh giá tổng kết, cân nhắc thận trọng từng bước để đáp ứng yêu cầu đối ngoại, tiến tới có thể mở rộng ra tất cả các cửa khẩu. Nếu tiếp tục thực hiện thì sẽ thu được thuế nhiều hơn, thu hút cơ hội đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”.

Minh Giang

Nguồn NĐ&ĐS: http://baonhandao.vn/thoi-su/luat-canh-sat-bien-viet-nam-co-tam-quan-trong-dac-biet-15529