Lòng dân Tây Nguyên với Bác Hồ

Sinh thời, Bác Hồ chưa một lần đến Tây Nguyên, nhưng tình cảm của Người với đồng bào và tấm lòng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với Bác thật sâu sắc. Chúng tôi đã được nghe những dòng hồi ức, những câu chuyện của người dân Tây Nguyên hướng về Bác kính yêu.

Đồng bào Tây Nguyên bên Tượng đài Bác Hồ ở Gia Lai. Ảnh: ĐỨC THỤY

Đồng bào Tây Nguyên bên Tượng đài Bác Hồ ở Gia Lai. Ảnh: ĐỨC THỤY

Trong rất nhiều tác phẩm âm nhạc viết về tình cảm của người dân Tây Nguyên với Bác, có một ca khúc phổ biến từ hàng chục năm trước. Ở tận các buôn làng xa xôi nhất của vùng đất này, đều nghe đâu đó vang lên những giai điệu thiết tha mang âm hưởng dân ca Tămpớt, Yalyău của người Mạ, Cơ Ho giữa đại ngàn, thể hiện cảm xúc biết ơn sâu sắc của người Tây Nguyên với vị Cha già dân tộc. Đó là bài hát “Tây Nguyên nhớ Bác” của nhạc sĩ Hà Huy Hiền. Nhạc sĩ từng nói: “Trong những chuyến đi thực tế đến với đồng bào, tôi được chứng kiến những câu chuyện, những tình cảm xúc động của người Mạ, Cơ Ho, Chu Ru, Mơ Nông, XTiêng hay Ba Na, Ê Đê… đối với Bác kính yêu. Họ tỏ lòng biết ơn Người bằng ngôn ngữ giản dị, chân thành. Giai điệu và ca từ bài hát đã hình thành từ những chuyến đi ấy. Tôi không ngờ, ca khúc lại có sức lan tỏa và phổ biến đến vậy”.

Trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, có nhiều người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên được ra miền bắc học tập, công tác. Họ có cơ hội được gặp Bác, được Bác thăm hỏi, động viên và những khoảnh khắc dù rất ngắn ngủi ấy đã để lại trong cuộc đời mỗi người những kỷ niệm khó phai. Nữ Nhà giáo Ưu tú Nay H’Win, dân tộc Gia Rai, nguyên là diễn viên Đoàn văn công Tây Nguyên, nhớ lại: “Tôi được gặp Bác ba lần. Lần sau cùng, khi biểu diễn văn nghệ phục vụ Bác và đoàn khách nước ngoài, Bác hỏi: “Sao độ này cháu H’Win gầy thế, cháu Kim Nhớ đi đâu, sao hôm nay không có mặt?”. Rồi bằng giọng ấm trầm, Bác bảo: “Các cháu cần ăn nhiều và mặc ấm. Mùa đông ở miền bắc lạnh lắm dễ bị sưng phổi…”. Tôi thưa với Bác là chị Kim Nhớ bận đi học văn hóa. Bác căn dặn chúng tôi: Cần phải học thật tốt, để sau này về giúp đồng bào Tây Nguyên. Lần ấy Bác đã gửi tặng mỗi người một chiếc áo dạ ấm”. Ông Ksor Ní, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum kể rằng: Một ngày đầu tháng 6-1946, ông và ông Y Ngông Niêk Đam cố Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, dân tộc Ê Đê được gặp Bác. Bác ân cần hỏi thăm tình hình đồng bào Tây Nguyên. Ông Y Ngông nói: “Thưa Bác, giặc Pháp đánh chiếm Tây Nguyên rồi, chúng cháu buồn lắm, lo lắm. Chúng ta có đánh đuổi giặc Pháp lấy lại Tây Nguyên không?”.

Bác trả lời: Có chứ, vì Tây Nguyên là một bộ phận của Việt Nam, nếu Việt Nam được độc lập rồi, Tây Nguyên cũng phải được độc lập, nếu Tây Nguyên bị giặc Pháp chiếm đóng, chúng ta phải tiếp tục đánh giặc Pháp để giải phóng Tây Nguyên, có vậy Việt Nam mới được độc lập hoàn toàn. Bác xòe bàn tay phải của mình cho chúng tôi xem, rồi tiếp tục nói rằng một bàn tay hoàn chỉnh có năm ngón, nếu thiếu một ngón thì bàn tay không hoàn chỉnh. Cũng như Việt Nam được độc lập thì Tây Nguyên phải độc lập, vì Tây Nguyên là một bộ phận của Việt Nam.

Như nhiều vùng quê trên khắp Tây Nguyên, xã Lộc Lâm, huyện Bảo Lâm (Lâm Đồng) là mảnh đất kiên trung, một căn cứ địa của ta trong hai cuộc kháng chiến. Một cựu du kích người Mạ tên là K’Brốp chia sẻ: “Ở Lộc Lâm này, nhà nào cũng có người làm cách mạng, người dân nào cũng theo Đảng, cũng thờ Bác Hồ”. Cụ nói rồi tới bên chiếc tủ gỗ nhỏ lục tìm chốc lát và lấy ra từ chiếc ống nứa một bức hình úa màu. Bức ảnh Bác Hồ in trên giấy báo cũ đã bạc màu thời gian. Cựu du kích K’Brốp kể rằng, bức ảnh vô giá này cụ được một anh bộ đội miền bắc cắt ra từ một tờ báo mà anh có được trên đường hành quân và tặng cụ từ năm 1965, trong một lần bộ đội chủ lực về phối hợp với du kích Lộc Lâm đánh giặc. Suốt bao nhiêu năm qua cụ luôn giữ gìn, nâng niu ảnh Bác như báu vật. Ông K’Chàng, cựu cán bộ thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở Lộc Lâm nói: “Đảng về, cán bộ của Bác Hồ về, chúng tôi như gặp được ánh sáng của Yàng. Từ đó, chúng tôi tuyên truyền với nhân dân là chỉ nghe theo lời Đảng, lời Bác, quyết tâm xây dựng lực lượng, dũng cảm chiến đấu bảo vệ buôn làng”.

Hồi ức về ngày Bác mất, ông Trần Nghĩa, người từng trực tiếp phụ trách một nhánh cơ sở cách mạng nội thành Đà Lạt nhớ lại: Khi nghe tin Bác mất, các chị em cơ sở của ta đã ôm nhau khóc ngay giữa chợ Đà Lạt. Tôi bàn với họ không nên khóc ở chỗ đông người, dễ bị địch phát hiện mà về từng gia đình tổ chức lập bàn thờ Bác. Việc làm này đã giúp mọi người vợi đi niềm xúc động và hăng hái hơn trong công tác vì luôn thấy hình bóng Bác ngay trong tâm hồn mình”. Ông Nghĩa kể thêm: “Một ký ức khó quên trong cuộc đời tôi là dịp kỷ niệm sinh nhật Bác năm 1970, tôi nhận được món quà của đồng chí Huỳnh Minh Nhật - Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Đức lúc bấy giờ gửi tặng, đó là một bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phía sau tấm ảnh có dòng chữ đề “Thân tặng Mười - 19-5-1970”. Cầm tấm ảnh Bác, tôi thấy như được đón nhận một phần thưởng vô cùng lớn lao, là một lời nhắc nhở suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình”. Bà Nguyễn Thị Phú xúc động sâu sắc khi nhớ lại lễ tưởng niệm Bác Hồ giữa nhà lao Đà Lạt. Bà kể: “Vào một buổi sáng, tên giám thị đi ngang qua phòng giam, nó đứng lại và nói vọng vào như thách thức: “Bác Hồ tụi bay chết rồi đó, tụi bay để tang đi”. Đúng như lời tên giám thị, ngày hôm sau cơ sở từ bên ngoài đã bí mật gửi vào cho chúng tôi một tờ báo có đưa tin Bác đã mất. Chúng tôi khóc nhưng không dám khóc lớn. Không khí phòng giam trở nên trầm lặng. Trong vòng kiểm soát gắt gao, chúng tôi đã tổ chức lễ tưởng niệm vị lãnh tụ kính yêu. Không lập được bàn thờ, không có một nén nhang, chỉ có ngọn đèn dầu thắp sáng trong góc phòng giam, chị em nữ tù nhân ngồi vây quanh, hai tay chắp trước ngực, nước mắt chảy dài”.

* * *

Ở thành phố Plây Cu (Gia Lai) có Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng năm 1984, trên cơ sở thực hiện ý nguyện chung của các tầng lớp nhân dân các dân tộc Tây Nguyên: “Không được đón Bác vào thăm thì làm nhà rước Bác vào ở”. Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum thời kỳ đó đã ra nghị quyết về xây dựng “Nhà trưng bày hình ảnh về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh” để nhân dân các dân tộc thăm viếng và là nơi giáo dục tư tưởng, đạo đức của Người cho các thế hệ mai sau. Khởi công từ ngày 2-9-1982, công trình được khánh thành và đi vào hoạt động vào ngày 19-5-1984. Sau này, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh công nhận Nhà trưng bày là Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh. Bảo tàng là địa chỉ thể hiện tình cảm sâu sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với Bác Hồ kính yêu. Đây là trung tâm giáo dục truyền thống cách mạng ở Tây Nguyên, đáp ứng nguyện vọng và tình cảm thiêng liêng của các dân tộc anh em trên cao nguyên phía tây Tổ quốc đối với lãnh tụ kính yêu...

Những ngày tháng Năm thiêng liêng này, người dân Tây Nguyên tưởng nhớ Bác, ôn lại những kỷ niệm, tình cảm và công lao to lớn mà Bác đã dành cho để nguyện làm theo di huấn của Người. Đồng bào một lòng kiên quyết chống lại âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau góp sức, chung lòng xây dựng vùng đất Tây Nguyên ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, vững chắc về quốc phòng - an ninh như mong muốn thiết tha của Người lúc sinh thời.

UÔNG THÁI BIỂU

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/chinhtri/item/36431902-long-dan-tay-nguyen-voi-bac-ho.html