Lễ cúng thần rừng của người Kháng

Dân tộc Kháng là một trong những dân tộc sinh sống lâu đời tại miền núi Tây Bắc và là 1 trong 19 dân tộc ở Điện Biên. Người Kháng sinh sống thành từng bản, tập trung ở huyện Tuần Giáo, Tủa Chùa. Với đặc thù địa hình sinh sống, phương thức canh tác, sản xuất nên đồng bào dân tộc Kháng vẫn giữ được nhiều nét văn hóa riêng, từ tiếng nói, trang phục, phong tục tập quán, các nghi lễ đặc sắc và độc đáo.

Đồng bào dân tộc Kháng phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào trồng trọt, chăn nuôi nên đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tinh thần mang nhiều nét đặc trưng, gắn bó với đời sống sản xuất nông nghiệp, như: Lễ Cơm mới, Lễ Pang phóng, Lễ cúng thần rừng... Lễ cúng thần rừng (Tam ma ngặt oom tia) là một trong những nghi lễ quan trọng trong đời sống lao động sản xuất của đồng bào dân tộc Kháng.

Lễ cúng thần rừng được dân tộc Kháng tổ chức thường niên mỗi năm một lần nhỏ, ba đến bốn năm một lần to. Lễ cúng là dịp bà con thể hiện sự biết ơn, kết nối khối đại đoàn kết trong cộng đồng dân tộc. Lễ cúng thần rừng được diễn ra ở cạnh suối có cây cổ thụ, lán thờ thần rừng dựng dưới gốc cây cổ thụ.

Thời gian tổ chức lễ cúng thần rừng thường là cuối mùa khô, cuối tháng 4, đầu tháng 5. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Kháng, thần rừng là người cai quản, bảo vệ con người, cây trồng, vật nuôi trong bản làng. Về ý nghĩa, cúng thần rừng cũng là một nghi thức cầu mưa, mùa khô hạn nhanh qua, mùa mưa nhanh tới để sản xuất nông nghiệp; đồng thời cầu xin các thế lực siêu nhiên che chở, bảo vệ cộng đồng dân tộc Kháng, không ốm đau, bệnh tật, có sức khỏe tốt, cây trồng, vật nuôi ít bị bệnh, mùa màng bội thu, tươi tốt.

Trong lễ cúng thần rừng, thầy mo sẽ làm lí, cúng mời thần rừng, thần đất, thần nước… về làm chứng; đồng thời gieo quẻ âm dương xin phép tổ chức lễ. Khi tổ chức lễ, người Kháng sẽ cắm “ta leo” (phên tre đan hình mắt cáo) với ngụ ý ở bản đang cúng lễ và tạm thời cấm bản, nếu ai vào bản sẽ bị phạt, làm lí. Ngoài ra, trong suốt quá trình làm lễ phụ nữ không được tham dự, khu vực làm lễ chỉ có đàn ông tham gia.

Để làm lễ cúng thần rừng, đầu tiên người Kháng dựng bàn tre đặt mâm lễ và chuẩn bị đầy đủ các lễ vật. Các lễ vật chính bao gồm 1 con bò (trâu), 1 con lợn và 13 con gà, đặc biệt không thể thiếu là rượu, cơm nếp. Khi đã chuẩn bị xong, ngay từ sáng sớm, những người đàn ông trong bản lấy một chiếc áo của mình, mang đến đặt cạnh 12 mâm cúng trong khu vực làm lễ để thần linh biết mặt và nhận được sự che chở. Sau đó họ tiến hành dâng các lễ vật sống, như tiết, đầu bò… Thầy mo hoặc những người giúp việc (khoảng 2 - 3 người) lấy một thân cây tròn, có đường kính 3cm, chặt thành 13 khúc với chiều dài khoảng 10cm rồi chẻ đôi thành một mặt trong màu trắng, mặt ngoài màu xanh, dùng để gieo quẻ âm dương. Khi gieo được quẻ một mặt ngoài, một mặt trong thì có nghĩa các thế lực siêu nhiên đã đồng ý với lời mời, thỉnh cầu của người tổ chức lễ.

Sau khi được chấp thuận, mọi người tiến hành nấu chín, sắp các lễ vật vào mâm cúng, trong mâm cúng bao gồm một con gà, thịt bò, thịt lợn, rượu, xôi. Tổng cộng có 13 mâm lễ, 1 mâm ở lán chính của thần rừng cai quản nơi tổ chức lễ (chủ nhà) và 12 mâm lễ (khách mời) được đặt ngoài trời, tương ứng với các vị quan, thần linh cai quản ở các vùng đất khác của người Kháng. Mỗi mâm lễ cắm một tấm “taleo” nhỏ, ở trung tâm 12 mâm lễ cắm taleo lớn, giữa các taleo được giắt lông gà và các cọng lạt bện thành mắt xích tượng trưng cho các bậc thang để các vị thần có đường đi xuống dùng lễ.

Khi các lễ vật đầy đủ, thầy mo tiến hành cúng lễ. Tại 12 mâm lễ, những khách mời được thầy mo thay mặt thần linh của bản mời các vị thần cai quản ở những nơi khác đến dự, chứng kiến và phù hộ, ban phước cho các thành viên trong cộng đồng dân tộc Kháng. Mỗi mâm lễ, sau khi đã đọc lời khấn, thầy mo tiến hành gieo quẻ, để biết vị thần được mời đã đến hay chưa, có chấp thuận lời thỉnh cầu của cộng đồng dân tộc Kháng hay không. Thầy mo cúng lễ tuần tự như vậy đến hết các mâm lễ. Sau khi đã cúng xong, đợi một khoảng thời gian nhất định, thầy mo và người phụ việc thay mặt người dân trong bản xin phép thần linh tại lán chính để kết thúc lễ, dọn lễ và tổ chức ăn uống, chúc tụng nhau. Trong không khí vui mừng, ấm cúng của cả bản làng, mọi người cùng nhau tâm sự, chia sẻ những khó khăn, thuận lợi trong cuộc sống.

Có thể thấy, lễ cúng thần rừng là một trong những tập quán xã hội và tín ngưỡng độc đáo, lâu đời của đồng bào dân tộc Kháng. Lễ cúng thần rừng không chỉ là dịp để tạ ơn thần linh, các thế lực siêu nhiên đã quản hạt, bảo vệ bản làng, phù hộ con người khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tươi tốt mà còn là dịp để các thành viên trong cộng đồng dân tộc kháng có cơ hội gặp gỡ, giao lưu và học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy khối đại đoàn kết, giúp đỡ nhau vươn lên.

Khu vực tổ chức lễ cúng thần rừng là bên suối, cạnh gốc cây cổ thụ.

Khu vực tổ chức lễ cúng thần rừng là bên suối, cạnh gốc cây cổ thụ.

Tham gia cúng lễ sẽ chỉ có đàn ông được tham dự.

Sau khi được chấp thuận mở lễ, mọi người trong bản tiến hành chế biến, nấu chín các lễ vật…

Làm taleo cắm tại các mâm lễ…

Sau đó thầy mo và những người phụ việc sẽ sắp 13 mâm lễ.

Các lễ vật bao gồm thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu, xôi nếp.

Trong thời gian chờ đợi các thần linh, các quan ăn lễ, những người đàn ông sẽ tiến hành rào khu vực lán thờ chính của bản, tránh trâu bò phá hoại.

Khi hương đã tàn, các nghi thức đã xong mọi người sẽ té rượu và một chút xôi, thịt ra đất rồi tiến hành thu dọn đồ cúng lễ….

Bài, ảnh: Trần Nhâm

Nguồn Điện Biên Phủ: http://baodienbienphu.com.vn/tin-tuc/van-hoa/205639/le-cung-than-rung-cua-nguoi-khang-