Lao động di cư và những thách thức về an sinh xã hội

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự dịch chuyển lao động giữa các quốc gia. Tín hiệu tích cực này của thị trường lao động cũng đặt ra không ít thách thức cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người lao động.

Các diễn giả tham gia Phiên thảo luận.

Đây là nhận định của các chuyên gia tại phiên thảo luận về chủ đề "Tự do dịch chuyển lao động tại các nước ASEAN và các nước đang phát triển”. Hoạt động nằm trong khuôn khổ Hội nghị Ban Chấp hành Hiệp hội An sinh xã hội ASEAN lần thứ 35 (ASSA 35) đang diễn từ ngày 18 đến 20-9 tại TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Tại phiên thảo luận, ông Mohammed Azman, Tổ chức An sinh xã hội (ASXH) Malaysia, cho biết, hiện người lao động (NLĐ) di cư khi đến làm việc ở một quốc gia khác thường chỉ quan tâm đến tiền lương và điều kiện làm việc, mà không quan tâm nhiều đến việc tham gia các chế độ bảo hiểm, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Đáng chú ý, lao động di cư là nữ đang chiếm tỷ lệ lớn với các công việc thiếu ổn định, thu nhập thấp như giúp việc gia đình, chăm sóc bệnh nhân, lao công, nông nghiệp… Điều này đòi hỏi các quốc gia cần nhanh chóng có những giải pháp để thay đổi nhận thức, bảo đảm quyền lợi cho đối tượng lao động di cư. Để làm tốt điều này, việc ký kết các hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia về BHXH là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất.

Đại biểu đến từ Indonesia nêu vấn đề thảo luận tại Hội thảo.

Chia sẻ thêm kinh nghiệm về vấn đề này, Giám đốc Trung tâm phụ trách các vấn đề quốc tế tại Hàn Quốc (NPS) Kim Young Eil cho biết: “Để bảo đảm quyền lợi về ASXH cho lao động di cư, các quốc gia cần có hiệp định về ASXH với các quốc gia khác. Hàn Quốc hiện có lao động làm việc tại 194 quốc gia. Vì vậy, ở Hàn Quốc có Hiệp định ASXH (SSA) ký kết với các quốc gia có NLĐ Hàn Quốc đến làm việc, nhằm giải quyết và bảo đảm các quyền lợi ASXH cho NLĐ khi làm việc ở nước ngoài hoặc sau khi về nước. Trong thực tế, nếu không có SSA, nhiều NLĐ sẽ bị thiệt thòi khi dịch chuyển lao động.

Theo ông Kim Young Eil, một số NLĐ đã làm việc tám năm tại Mỹ, đã nộp thuế ASXH với tổng số tiền 122.400 USD, nhưng do chưa đóng đủ thời gian tối thiểu 10 năm để hưởng chế độ hưu trí của Mỹ, nên không đủ điều kiện nhận lương hưu. Ông Kim làm cho một BV của Đức 30 năm và được nhận 1.000 Euro lương hưu từ Đức, nhưng sau khi quay lại Hàn Quốc, số tiền lương hưu của Đức giảm xuống còn 700 Euro. Tương tự, tại châu Á, lao động châu Á gặp khó khăn trong việc nhận quyền lợi hưu trí từ nước ngoài, vì thời gian được bảo hiểm của họ thường dưới 10 năm. Nếu một người đủ điều kiện nhận lương hưu ở một nước khác, nhưng lại quay lại nước mình, khoản lương hưu đó có thể bị giảm hoặc không được trả về nước đó.

Dẫn chứng ông Kim Young Eil cho thấy, nếu không có SSA, NLĐ Hàn Quốc sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi về ASXH. SSA sẽ giúp loại bỏ bảo hiểm kép, đóng ở cả hai nước, giảm bớt gánh nặng tài chính đối với lao động ở nước ngoài hoặc những người tự làm việc ở nước ngoài. NLĐ đủ điều kiện nhận chế độ hưu trí thông qua tổng thời gian bảo hiểm và bảo đảm rằng công nhân nước ngoài được đối xử bình đẳng với công dân của nước ký kết hợp đồng…

Có thể thấy, việc ký kết các hiệp định về ASXH mang lại lợi ích to lớn cho NLĐ di cư. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết, để ký kết được các hiệp định này, còn gặp không ít rào cản, thách thức. Các hiệp định thường mất rất nhiều thời gian để hoàn thiện, ký kết, nhất là khi một số quốc gia không tìm được tiếng nói chung. Châu Á nói chung và ASEAN nói riêng có rất nhiều hệ thống, mô hình về ASXH với sự khác biệt lớn. Bên cạnh đó, tại nhiều quốc gia, hệ thống ASXH cũng chưa hoàn thiện, độ bao phủ còn thấp, nên chưa đủ nguồn lực hoặc thiếu kinh nghiệm trong bảo vệ quyền lợi cho lao động di cư.

Còn tại Việt Nam, Phó Trưởng Ban Thu (BHXH Việt Nam) Đinh Duy Hùng chia sẻ: Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thường thuộc nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Hiện, Việt Nam có 231 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện, còn rất thấp so với 18 triệu lao động phi chính thức. Việc mở rộng độ bao phủ BHXH, BHYT cho nhóm đối tượng này có nhiều thuận lợi khi hệ thống pháp luật đã cơ bản hoàn thiện, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, thể hiện mạnh mẽ của các Nghị quyết. Tuy nhiên, vẫn có không ít khó khăn, thách thức, nhất là khi điều kiện kinh tế còn hạn chế.

Đặc biệt, trong xu thế dịch chuyển lao động, Việt Nam hiện có khoảng 500 nghìn người đi làm việc tại nước ngoài, và con số này tăng lên hàng trăm nghìn người mỗi năm. Tuy nhiên, mới có khoảng 6.000 người trong nhóm đối tượng này tham gia BHXH, trong khi chưa có phương pháp quản lý hiệu quả về BHXH…

Để bảo đảm ASXH đối với lao động di cư, các chuyên gia cho rằng, các quốc gia cần nhanh chóng ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương về bảo vệ lao động di cư. Cùng với đó là loại bỏ các quy định về phân biệt đối xử quốc tịch; tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về lao động di cư. Ngoài ra, cần giúp đỡ lao động di cư tiếp cận dần với các chính sách ASXH của quốc gia tiếp nhận lao động.

Ông Jens Schremmer, Trưởng Văn phòng Tổng Thư ký Hiệp hội ASXH Thế giới (ISSA), cho rằng, NLĐ di cư thường làm việc ngắn hạn, nhiều biến động, ít quan tâm đến quyền lợi của mình. Do vậy, công tác thống kê và truyền thông rất quan trọng. Bên cạnh đó, các chính sách cũng cần được thiết kế hấp dẫn hơn; cách tiếp cận đơn giản, thuận tiện hơn thông qua ứng dụng công nghệ thông tin để NLĐ di cư dễ dàng tham gia, thụ hưởng các chế độ.

Có thể thấy, lao động di cư đang là xu thế nóng toàn cầu. Lao động di cư cũng đang đóng góp rất lớn cho sự phát triển của từng quốc gia, vùng lãnh thổ. Việc xây dựng các chính sách ASXH cho lao động di cư là một yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, chính đáng và có thể thực hiện được qua các hiệp định song phương, đa phương về ASXH cũng như sự nỗ lực của mỗi quốc gia.

NHẬT ANH, Ảnh: ĐĂNG KIÊN

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/xahoi/item/37662802-lao-dong-di-cu-va-nhung-thach-thuc-ve-an-sinh-xa-hoi.html