Làng đèn cù chênh chao giữa mùa hội

Đến giờ, nhiều người sống trong làng Đàn Viên, xã Cao Viên (huyện Thanh Oai, Hà Nội) vẫn không ngừng tự hỏi, vì sao gia đình ông Vũ Văn Sinh lại cứ mê mẩn với giấy, với tre, với những chiếc đèn cù (còn có tên khác là đèn kéo quân) nhiều năm đến như vậy.

Ánh sáng mà thứ đèn ấy tỏa ra cũng thật kỳ lạ, chúng mờ ảo đan xen đủ mọi hình dáng khiến đám trẻ không thôi nỗi tò mò. Ông Sinh bảo, làng Đàn Viên trước nổi danh với nghiệp làm đèn, làm pháo. Riêng pháo thì cả nước cùng bỏ nhưng nghề làm đèn e chừng khắp Hà Thành nơi đây cũng là điểm cuối cùng còn sót lại. Ngẫm cũng tiếc cái nghiệp truyền đời nên cứ mỗi đận tết Trung thu, cả nhà ông lại xúm vào làm đèn cho đỡ nhớ...

Gia đình ông Vũ Văn Sinh là một trong số ít người ở Đàn Viên hiện giờ còn giữ nghề làm đèn kéo quân

Gia đình ông Vũ Văn Sinh là một trong số ít người ở Đàn Viên hiện giờ còn giữ nghề làm đèn kéo quân

Mong manh như ánh đèn trước gió

Sau khi rẽ ngang đường 21B, băng qua không ít đoạn ngoằn ngoèo chúng tôi cũng đến được Đàn Viên. Nghe các cao niên trong vùng kể lại, cách đây ba chục năm, cứ vào ngày hội hè, lễ tết là cả làng lại tấp nập, người ra kẻ vào đông như trẩy hội. Khi ấy làng còn nổi tiếng với nghiệp làm đèn, làm pháo. Người ta mang quang gánh, đội thúng, đi xe đạp tìm đến để đưa đèn đi khắp nơi bán.

Sinh ra và lớn lên trong cái “nôi” của nghề như vậy nên ở cái đận chưa kịp lên 8 tuổi, Vũ Văn Sinh đã biết “học trộm” nghề của ông, của cha rồi lụi cụi vót tre, dán giấy làm đèn. Những chiếc đèn kéo quân đầu tay của Sinh, dù chẳng phải thứ vật phẩm đắt đỏ nhưng đối với những đứa trẻ cùng trang lứa bấy giờ nó là cả một báu vật. Giữa đêm trăng rằm, ánh đèn hòa chung với tiếng trống rộn rã, tiếng nói cười của đàn trẻ khiến mùa chơi trăng nào cũng trở nên náo nức.

Mỗi dịp Trung thu, nhắc đến nghiệp làm đèn ông sao ở Báo Đáp (Hồng Quang, Ninh Trực, Nam Định), đầu lân làng Gạo (Thành Lợi, Vụ Bản, Nam Định), chiếc tàu thủy sắt tây Khương Hạ (Thanh Xuân, Hà Nội), đèn kéo quân (Thanh Oai, Hà Nội), tiến sĩ giấy (Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội), mặt nạ giấy bồi ở Hàng Than (Hà Nội)… chẳng mấy ai không biết. Sở dĩ những “thương hiệu” này được biết đến một phần bởi nét tinh túy thuần Việt, phần khác vì chúng đều là hàng hiếm, còn ít người gìn giữ.

Nghịch lý ở chỗ dù nổi tiếng nhưng phần lớn những nghệ nhân còn giữ nghề lại chẳng thể sinh nhai bằng cái nghiệp đeo bám. Có một điểm lạ, tựa như một nét riêng liên quan tới những nghệ nhân còn sót lại của làng nghề làm đèn kéo quân, mặt nạ giấy bồi, tàu thủy sắt… mà tôi từng có dịp tiếp xúc đó là: Những mùa Trung thu tràn đầy tiếng cười con trẻ.

Trong câu chuyện về mùa hội của họ, tất thảy con trẻ đều tung tăng trên tay chiếc đèn kéo quân, đèn ông sao, đeo những chiếc mặt nạ giấy bồi ngộ nghĩnh gõ trống đợi trăng. Đến khi vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng giữa bầu trời thì mâm cỗ được phá. Trong đêm tết Trung thu, trẻ cũng rất thích chơi trò rồng rắn.

Đi trước là đội múa lân, đội gõ trống, trên tay cầm những chiếc đèn rực rỡ sắc màu và hình thù, hát vang những giai điệu vui tươi rộn ràng: “Ông giẳng ông giăng/Xuống chơi với tôi/ Có nồi cơm nếp/Có nệp bánh trưng/ Có lưng hũ rượu/Có khiếu đánh đu/ Thằng cu vỗ chài/Bắt chai bỏ giỏ...”. Trung thu xưa là vậy, có lẽ vì tình yêu, sự hoài niệm về những mùa trăng mà những nghệ nhân đều cố sức giữ gìn nghề cha ông truyền thống.

Sâu hơn về cái nghiệp làm đèn ở Đàn Viên cũng thực kỳ lạ. Làng chế tạo đủ các loại đèn như: Ông sao, kéo quân, lồng đỏ... nhưng chỉ duy có đèn kéo quân là được xa gần chuộng mua hơn cả. Nghe bảo, hết tháng Giêng, người dân Đàn Viên lại tỏa đi khắp nơi lùng mua tre, nứa làm nguyên liệu kết đèn. Nứa, tre mua về được ngâm trong ao từ 1-2 tháng để chống mối mọt.

Chế tạo công đoạn đơn giản nhất là làm đèn ông sao. Đầu tiên của việc làm loại đèn này là cắt khung. Cắt khung rất mất thời gian, làm gì thì làm nhưng tới tháng 5 là những hộ làm nghề phải ráp xong xương đèn. Lúc này, giấy bóng trắng được mua về nhuộm thành các màu đỏ, xanh, tím, vàng rồi chuyển đến những người thợ có tay nghề cao dùng các con dấu có hình măng non, mặt trăng... in lên. Công việc này gọi là phất mặt. Đèn ông sao tiêu thụ được nhiều hay không chủ yếu dựa vào những hoa văn tinh tế đó.

Chế tạo đèn kéo quân liệu có khó? Ông Vũ Văn Sinh hóm hỉnh đáp “dễ”. Ấy nhưng, cái “dễ” mà người nghệ nhân luôn miệng “học tí là biết làm ngay”, thực chẳng phải đơn giản. Bởi, trung bình mỗi người trong gia đình ông Sinh dù rất thạo tay, thuộc nằm lòng hơn 10 khâu đoạn chế tạo loại đèn này cũng chỉ có thể làm hoàn thiện hai chiếc trong một ngày.

Ông Vũ Văn Sinh bật mí: “Cái khó nhất của cái đèn này là tạo áp lực cho nó quay. Vì nó không quay bằng mô-tơ mà bằng lực gió. Đây cũng là cái khó nhất trong làm đèn kéo quân. Tản đèn giúp cho hình tròn bằng nan tre có dính các hình thù bắt mắt có thể quay. Khi nến được thắp lên, lửa sẽ làm nóng không khí bên trong và gây chênh lệch nhiệt độ với bên ngoài để tạo ra luồng gió len lỏi qua khe của tản đèn và làm các hình ảnh quay vòng. Bóng của chúng được chiếu lên mặt giấy bên ngoài sống động như xem phim”.

Đang lúc hào hứng, bất giác người nghệ nhân thở dài: “Làng có nghề đấy, đèn đẹp đấy nhưng còn mấy ai chơi đèn kéo quân”. Quả thực, ít năm nay trước sự xâm lấn ồ ạt của các sản phẩm đồ chơi ngoại nhập bắt mắt, tết Trung thu cũng chẳng được mấy gia đình coi trọng. Nó biến chất thành dịp để người lớn thương mại hóa “văn hóa” biếu tặng, Trung thu bỗng không mấy vẹn tròn trong đôi mắt đám trẻ. Đèn làm ra không bán được, người làm nghề ở Đàn Viên dù xót lòng với cái nghiệp truyền đời nhưng vẫn phải xoay sở, tìm đủ thứ nghề khác để tồn tại.

Một người dân Đàn Viên chua xót: “Đúng là làm được nhiều thì bán cũng được, nhưng cũng chỉ bán trong dịp Trung thu thôi. Không ai làm mỗi đồ chơi dân gian mà có thể sống được với nghề. Chúng tôi vẫn phải làm các nghề khác để sống...”

Nghề là thú vui khó bỏ

Nhiều người khuyên ông Sinh nên từ bỏ nghề làm đèn kéo quân. Bởi, nhìn một lượt thì cả làng Đàn Viên chẳng mấy ai còn đoái hoài đến nghề này nữa. Ai nhiều vốn thì tập trung vào nấu rượu, kiêm nhiệm chủ thầu xây dựng, ít điều kiện hơn thì họ tìm đến nội thành làm công nhân, không tốn nhiều sức mà lại sáng làm chiều tối đã có tiền dắt túi.

Vậy nhưng, tính của ông Sinh cũng thực “lạ”. Hễ ai hỏi thì ông chỉ cười rồi tủm tỉm: “Nghề không đơn thuần là một nghề nữa, nó là thú vui khó bỏ”. Cũng bởi thế, dù cả năm bận bịu với nghiệp chính là sản xuất pháo bông, chăm sóc ruộng vườn nhưng cứ rảnh rang, đặc biệt là những ngày cận kề trung thu thì cả gia đình ông lại nô nức vuốt nan, làm đèn.

Hàng chục chiếc đèn được xuất đi khắp các tỉnh trên cả nước, từ miền xuôi đến miền ngược, thị trường lớn nhất là Hà Nội. Đèn làm ra bao nhiêu bán hết bấy nhiêu. Khách hàng quen chỉ cần gọi điện báo trước, đến ngày về chở đi, hoàn toàn tin tưởng vào sự tỉ mẩn và khéo léo của đôi bàn tay người nghệ nhân làng Đàn Viên.

Cũng như nhiều năm trước, năm nay sản phẩm đèn kéo quân ở làng Đàn Viên vẫn tung ra thị trường với 2 chủng loại. Đối với sản phẩm tiêu thụ ở các đô thị, là loại đẹp, kích cỡ lớn nhỏ khác nhau bán với giá từ 100.000 – 200.000 đồng/chiếc. Với nông thôn, ông Sinh làm loại bình dân bán với giá từ 50.000 – 120.000 đồng/chiếc.

Vậy là làng đèn cù vẫn âm ỷ cháy? Suy nghĩ ấy bất giác hiện ra trong đầu tôi khi chứng kiến một phụ nữ trẻ là hàng xóm cạnh nhà ông Sinh đang hí hoáy đốt thử chiếc đèn kéo quân. Có thể lắm chứ, bởi cả gia đình ông Sinh từ vợ, cậu con trai Vũ Văn Tuấn, con dâu đến thành viên nhỏ tuổi nhất là bé Vũ Văn Hoàng cũng đều theo nghề. Họ gìn giữ cái nghề “chẳng đủ ăn” này như một thú vui khó bỏ. Và quan trọng hơn, ở đây họ thấy tự hào vì vẫn đang tiếp tục gìn giữ một nghề truyền thống, một nét văn hóa Việt.

Luyện Đinh

Nguồn LĐTĐ: http://laodongthudo.vn/lang-den-cu-chenh-chao-giua-mua-hoi-80344.html