Khủng hoảng giáo dục: Thách thức đến cùng cơ hội

Cuộc khủng hoảng giáo dục, nói cho cùng chính là hệ quả của những thành tựu giáo dục. Đó là một cuộc khủng hoảng trưởng thành.

Khủng hoảng giáo dục lần này là kết quả của sự phát triển

Khủng hoảng giáo dục lần này là kết quả của sự phát triển

Nền giáo dục Việt Nam trong khoảng hai chục năm gần đây đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, đến mức nhiều người không ngần ngại sử dụng từ “Khủng hoảng”. Nhưng theo chúng tôi, sự khủng hoảng này, nếu có, cũng không phải hoàn toàn tiêu cực.

Chúng ta phải phân biệt giữa "khủng hoảng phát triển" và "khủng hoảng suy thoái". Khủng hoảng giáo dục ở nước ta hiện nay, theo tôi, thuộc cả hai loại. Một mặt, nó cho thấy những bất cập của nền giáo dục khi đối mặt với những thay đổi của thời đại, cả khách quan lẫn chủ quan. Mặt khác, nó là dấu hiệu trưởng thành của nền giáo dục.

Giáo dục đang... chạy lùi?

Một nguyên nhân khách quan của cuộc khủng hoảng giáo dục là sự thay đổi vũ bão của thế giới, nhất là về khoa học và công nghệ. Những thay đổi này khiến cho mọi nền giáo dục đều ít nhiều rơi vào khủng hoảng.

Ở Mỹ chẳng hạn, ngay từ năm 1992, Gerald Graff, đã viết trong cuốn sách đoạt Giải thưởng Sách Quốc Gia Beyond the Culture Wars: How Teaching the Confl ts Can Revitalize American Education (Vượt qua những cuộc chiến văn hóa: Giảng dạy mâu thuẫn có thể giúp phục hồi nền giáo dục Mỹ ra sao).

“Nếu tin vào những gì chúng ta đọc gần đây, nền giáo dục đại học Mỹ đang ở trong tình trạng thê thảm”. Bill Readings thậm chí còn đặt cho cuốn chuyên khảo của mình về nền giáo dục đại học Bắc Mỹ cái nhan đề The University in Ruins (Trường đại học trong cảnh đổ nát - 1996).

Cuộc khủng hoảng giáo dục, vì thế, nói cho cùng chính là hệ quả của những thành tựu giáo dục. Đó là một cuộc khủng hoảng trưởng thành.

Một nguyên nhân khách quan khác là thành công của quá trình đổi mới và hội nhập, dẫn đến những đòi hỏi cao hơn của người dân đối với ngành giáo dục.

Chính sự phát triển nhanh chóng của đất nước, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự lạc hậu nhanh chóng của chiến lược, phương pháp cũng như nội dung giáo dục.

Trong những nguyên nhân chủ quan, sự yếu kém về tư duy chiến lược, kiến thức quản lý và chuyên môn của ngành giáo dục đã được nhiều người nói đến. Nhưng bên cạnh đó, còn một nguyên nhân khác, đó những thành tựu vĩ đại của của chính ngành giáo dục.

Chính bằng thành công trong việc phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường học đông đảo từ cấp cơ sở đến đại học và trung học, ngành giáo dục đã góp phần quyết định trong việc nâng cao dân trí, dẫn đến những thay đổi trong nhu cầu và quan niệm giáo dục, cũng là tiền đề của cuộc khủng hoảng giáo dục hiện nay.

Nhìn lại để hướng tới tương lai

Thử nhìn lại lịch sử ngành giáo dục hiện đại còn khá non trẻ của chúng ta, từ mốc 1945, khi Hồ Chủ Tịch, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam độc lập, kêu gọi "tiêu diệt giặc đói và giặc dốt", chúng ta sẽ thấy những thành tích đạt được thật đáng tự hào.

Từ một quốc gia trên 90% trăm mù chữ, chúng ta hiện nay là quốc gia có trên 90% dân số biết chữ, một chỉ số ngang với những quốc gia phát triển nhất. Từ chỗ chỉ có một trường đại học với số sinh viên ít ỏi, chúng ta hiện có hàng trăm trường đại học, hàng triệu người tốt nghiệp đại học và hàng vạn thạc sĩ, tiến sĩ.

Nếu nhìn lại, chúng ta đã có rất nhiều thành tựu trong giáo dục

Những thành tích này còn đáng khâm phục hơn nữa nếu chúng ta nhớ lại những khó khăn to lớn của những ngày đầu độc lập. Trong cuộc họp giữa Hồ Chủ Tịch với Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Vũ Đình Hòe lúc bấy giờ đưa ra bài toán: “Cứ dạy cho một người biết đọc, biết viết trong ba tháng phải tốn ít ra là 6 đồng. Dạy cho 10 triệu người trong một năm phải tiêu hơn 60 triệu đồng tiền sách vở, giấy bút. Nếu trả lương giáo viên thì phải thêm 10 triệu đồng nữa vì phải cần đến 10 vạn giáo viên, mỗi giáo viên có thể dạy 100 học sinh trong một năm”.

Ông Vũ Đình Hòe kể lại: sau khi bàn bạc, hội nghị cùng bàn bạc đi đến thống nhất về khoản chi cho giáo viên thì không phải tốn vì phong trào sẽ không ai nhận tiền lương. Còn về con số 10 vạn giáo viên thì tính ra cả nước có 57 tỉnh, mỗi tỉnh phải tự tổ chức 2.000 giáo viên, mỗi tỉnh có khoảng 800 làng, mỗi làng phải tự túc lo bảy giáo viên...

Căng nhất vẫn là khoản chi 60 triệu đồng để mua sách vở, ông Hòe đề nghị: “Trong lúc ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ có thể dùng phấn hay gạch để viết xuống đất, chi phí sẽ rút xuống còn 2 đồng chứ không phải 6 đồng như trước đây, vậy Chính phủ có thể trả 5 triệu đồng cho khoản đó không?”.

Bộ trưởng Tài chính Phạm Văn Đồng đang ngồi bên dưới trả lời ngay: “Được!”. Cả hội trường vỗ tay hoan nghênh. Ông Hòe thừa thắng xông lên: “Còn 15 triệu nữa, chi phí này ta không nhờ Chính phủ mà sẽ trông vào nhân dân, mỗi làng tự lo 1.000 đồng một năm có được không?” Các đại biểu từ khắp nơi về dự đều hô to: "Được!...Được!...” (Vũ Bình, Công việc đầu tiên của chính phủ đầu tiên, báo Tuổi trẻ).

Người biết nhiều giúp người biết ít, người biết ít biết người chưa biết, nền giáo dục của chúng ta bắt đầu như thế, bằng ý chí và sức mạnh của cả dân tộc.

Đó là một công cuộc giúp nhau học tập vĩ đại, không chỉ ở những lớp học bổ túc, những hoạt động của Nha bình dân học vụ, mà ở mọi ngành, mọi cấp.

Tôi còn nhớ, khi tôi lên 5, học lớp vỡ lòng, cô giáo tôi mới tốt nghiệp lớp 4. Khi học lớp 5, cô giáo chủ nhiệm mới tốt nghiệp “7+2”. Lên lớp 8, cô giáo tôi tốt nghiệp hệ “10+3”.

Hình thức "cuốn chiếu" này còn tiếp tục ở bậc đại học khi đại đa số các giảng viên đại học chỉ là những người tốt nghiệp đại học được giữ lại dạy tại trường. Tình hình hiện nay về thực chất vẫn chưa thay đổi nhiều lắm, mặc dù nhiều giảng viên đã được tạo điều kiện “chuẩn hóa” để có bằng sau đại học.

Sự phát triển “cuốn chiếu” này chắc chắn cũng tiềm ẩn những mặt tiêu cực, nhưng trong giai đoạn phát triển theo chiều rộng, những mặt tích cực đáng kể hơn nhiều. Chính nó đã góp phần quyết định vào việc đào tạo nhân lực và nâng cao dân trí.

Tuy nhiên, sự phát triển theo bề rộng đã chạm đến giới hạn và bộc lộ nhiều mặt tiêu cực. Ngày nay, khi con người Việt Nam phải hội nhập, phải hợp tác và cạnh tranh với các đồng nghiệp trên thế giới, những yêu cầu cao hơn đối với giáo dục đang được đặt ra.

Xã hội Việt Nam đã trưởng thành đáng kể. Nó không còn bằng lòng với nền giáo dục truyền thụ thông tin đơn thuần, với những chương trình “cuốn chiếu”, trong đó người thầy chỉ là người học trước. Internet và ngoại ngữ càng làm cho vai trò truyền thụ kiến thức của người thầy trở nên mờ nhạt.

Cuộc khủng hoảng giáo dục, vì thế, nói cho cùng chính là hệ quả của những thành tựu giáo dục. Đó là một cuộc khủng hoảng trưởng thành. Giáo dục hiện nay thu hút sự quan tâm của xã hội nhiều hơn bao giờ hết.

Nó không chỉ phải đối mặt với những yêu cầu mới, những thách thức mới, mà đồng thời cũng đang đứng trước những triển vọng mới và cơ hội mới. Vấn đề của chúng ta là phải có đủ bản lĩnh và trí tuệ để nắm lấy thời cơ.

Ngô Tự Lập, Viện Quốc tế Pháp ngữ IFI

Nguồn DĐDN: https://enternews.vn/khung-hoang-giao-duc-thach-thuc-den-cung-co-hoi-167353.html