Khôi phục kinh tế hậu Covid-19: Giải ngân mạnh cho hạ tầng, tạo việc làm cho lao động tay nghề thấp
VinaCapital đề xuất Việt Nam nên thúc đẩy kinh tế phát triển lâu dài và hồi phục sau dịch Covid-19 bằng cách giải ngân mạnh cho phát triển hạ tầng, nhưng cần kiểm soát chặt chẽ, tránh thất thoát, lãng phí, không hiệu quả.
Ảnh minh họa.
Cần bảo lãnh cho DNNVV vay vốn
Báo cáo “Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam” của VinaCapital vừa phát hành cho rằng, Chính phủ Việt Nam cần nhanh chóng thúc khôi phục tăng trưởng kinh tế trở lại từ dịch Covid-19.
Các quốc gia trên thế giới đã có nhiều chương trình để hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng.
Chẳng hạn, Ngân hàng Trung ương Thái Lan đang trợ cấp một phần cho các khoản vay của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ. Ngân hàng trung ương nước này cũng tung ra 12 tỷ USD để mua trái phiếu doanh nghiệp cấp đầu tư do các doanh nghiệp trong nước phát hành.
Tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại cũng đã tái cơ cấu các khoản cho vay lên tới 4 tỷ USD bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, và 22 tỷ USD cho các khoản vay mới với lãi suất ưu đãi với sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cho biết họ không thể tiếp cận các khoản vay để có vốn hoạt động và/hoặc trả lương trong thời điểm khó khăn. Các ngân hàng dường như miễn cưỡng cho vay đối với những doanh nghiệp này vì sợ nợ vay không được hoàn trả.
Việc gặp khó khăn khi tiếp cận tín dụng không là vấn đề chỉ riêng với các doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam.
Tại Mỹ, Chính phủ nước này cũng đã có một quỹ đặc biệt để cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ do bị tác động bởi dịch Covid-19, nhưng có thông tin cho rằng mới có 1 trong 10 công ty nộp hồ sơ vay vốn thực sự được hỗ trợ. Dù những khoản vay này là tiền của Chính phủ nhưng được quản lý bởi các ngân hàng thương mại như: JP Morgan, Bank of America… Quá trình nộp đơn vay vốn rất khó khăn, nhiều doanh nghiệp nhỏ không thể thuê các luật sư và kế toán đắt tiền. Đến nay, chỉ các doanh nghiệp lớn mới nhận được khoản vay từ chương trình này.
Tại Đức, Chính phủ không cho vay bằng tiền từ ngân sách, nhưng đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Theo VinaCapital, phương thức này có thể áp dụng đối với Việt Nam, vì nó giảm thiểu sự chi tiêu của Chính phủ (thí dụ, Chính phủ chỉ bị mất tiền khi doanh nghiệp không trả được nợ). Ngoài ra, Chính phủ có nhiều cách để giảm thiểu tổn thất cho vay.
Điều đó cho thấy, sự khốc liệt của dịch Covid-19 đã khiến các chính phủ trên thế giới làm nhiều cách không theo thông thường. Chẳng hạn, Mỹ đã bảo lãnh trực tiếp một phần cho hãng hàng không quốc gia và ngành du lịch (một điều mà các nhà làm chính sách Việt Nam cần xem xét trong tương lai).
Chi tiêu mạnh cho phát triển hạ tầng
Để thực sự kích thích hoạt động kinh tế mới, theo VinaCapital, Chính phủ Việt Nam nên chi tiêu ngay lập tức cho cơ sở hạ tầng. Vì đây là lĩnh vực có thể thu nhận những lao động có tay nghề thấp, khi đây là lực lượng bị ảnh hưởng nhiều nhất từ dịch bệnh và con số thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Theo một thống kê mới nhất về thất nghiệp ở Mỹ, gần 60% những người làm việc theo giờ (có kỹ năng làm việc thấp) bị thất nghiệp trong số hơn 30 triệu người mất việc làm ở Mỹ kể từ dịch Covid-19 bùng phát. Vì vậy, Chính quyền Mỹ đã đổ 1 tỷ USD vào phát triển cơ sở hạ tầng để tạo việc làm nhanh chóng.
VinaCapital cho rằng sự suy thoái toàn cầu do đại dịch sẽ làm kinh tế giảm mạnh nhất kể từ cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Tại thời điểm đó, Chính phủ Mỹ thành lập Cơ quan Quản lý Tiến độ công trình (WPA) và đã tạo được 8 triệu việc làm cho lao động kỹ năng thấp (khi đó dân số Mỹ mới khoảng 125 triệu người) và cũng giúp công suất phát điện nước này tăng ồ ạt, đưa Mỹ trở thành quốc gia công nghiệp mạnh nhất thế giới.
Tương tự, Chính phủ Trung Quốc đã chi tiêu rất lớn vào phát triển cơ sở hạ tầng sau Khủng hoảng Tài chính châu Á 1997 và Khủng hoảng Tài chính toàn cầu 2008. Sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng thời gian đó đã góp phần thúc đẩy nhanh chóng năng suất công nghiệp của Trung Quốc sau này.
Trước Khủng hoảng Tài chính châu Á 1997, gần như toàn bộ ngành công nghiệp sản xuất giá trị cao tại Trung Quốc được đặt xung quanh Thượng Hải và các tỉnh ven biển như Quảng Đông, nhưng sự phát triển rất nhanh của hạ tầng lại tạo ra cơ hội cho sự phát triển sản xuất giá trị gia tăng cao ở các thành phố nằm sâu trong nội địa như Vũ Hán.
Từ thực tế của Mỹ và Trung Quốc ở trên, VinaCapital cho rằng Việt Nam nên tiến hành xây cao tốc, cảng biển và giao thông công cộng. Vì những công trình hạ tầng đó sẽ thúc đẩy nhanh năng lực của Việt Nam để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như tiềm năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Đẩy mạnh sản xuất thiết bị y tế xuất khẩu
Ngành dệt may của Việt Nam đã sụt giảm xuất khẩu 9% trong quý I/2020. Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) dự báo xuất khẩu giảm 15% trong năm nay. VinaCaptal cho rằng dự báo này vẫn còn lạc quan. Vì doanh thu hàng dệt may tại Mỹ gần đây đã giảm 50% so với cùng cùng kỳ năm trước. Mới đây, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã cho biết có thể 50.000 công nhân trong ngành phải tạm nghỉ việc do đơn hàng giảm đột ngột.
Trong tình thế mới, một số doanh nghiệp trong ngành đã nhanh chóng chuyển đổi từ sản xuất quần áo sang sản xuất các vật dụng bảo hộ cá nhân (PPE) như khẩu trang… Đây là nhu cầu lớn trong nhiều năm tới. Đặc biệt, Trung Quốc hiện cũng xuất khẩu lượng khẩu trang chiếm tới 1/4 trên thế giới, trong khi người tiêu dùng tại Mỹ và châu Âu thận trọng hơn khi mua các sản phẩm y tế từ Trung Quốc.
Do vậy, Chính phủ Việt Nam nên có hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may nhỏ chuyển đổi sản xuất sang PPE để giải quyết công ăn việc làm. Tuy nhiên, các nhà sản xuất phải có chứng nhận của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) hoặc nhãn hiệu CE của Liên minh Châu Âu (EU).
Dù rằng chương trình “Chính sách công nghiệp” của Chính phủ vẫn muốn phát triển các ngành công nghiệp chuyên biệt. Nhưng các chuyên gia kinh tế không tán thành chính sách này ở các thị trường mới nổi. Tại Ấn Độ những năm 1950 đến năm 1990, “Chính sách công nghiệp” của nước này đã cho ra những kết quả tai hại. Hay tại Nhật Bản, chính sách công nghiệp cũng bị chỉ trích khi chính phủ tạo lợi thế hơn cho một số công ty vào những năm 1960 (thí dụ, Chính phủ Nhật đã thiên vị với hãng Toyota hơn Honda).
Chính phủ cũng có thể từng bước hướng các doanh nghiệp y tế phát triển ở cấp độ phức tạp thấp hơn, như dịch vụ “Nghiên cứu lâm sàng thuê ngoài” (Clinical Research Outsourcing - CRO), và đã có tới 3/4 các hoạt động nghiên cứu y tế được thực hiện bởi các công ty thuê ngoài.
Trong vài năm gần đây, ngành công nghiệp CRO đã được chuyển đến các thị trường mới nổi (đặc biệt là Trung Quốc) để cắt giảm chi phí. Nhu cầu đối với dịch vụ CRO đang tăng nhanh trước khi dịch Covid-19 xảy ra.
Vì thế VinaCapital cho rằng, Chính phủ Việt Nam và Bộ Y tế cần từng bước khuyến khích phát triển ngành công nghiệp CRO trong nước để cung cấp cho các công ty dược phẩm nước ngoài. Hiện tại, có vài công ty CRO phát triển tập trung tại Huế, nơi có một trường đại học được đánh giá cao và di sản học thuật có uy tín.
“Rã băng” bất động sản
VinaCapital đề xuất Việt Nam cần tháo gỡ những vướng mắc pháp lý cho một số dự án bất động sản dựa trên cách tiếp cận “Ngân hàng tốt, ngân hàng xấu” (thuật ngữ xét riêng trong một ngân hàng phân tách các tài sản xấu hoặc độc hại – “ngân hàng xấu”, những tài sản tốt và không độc hại - “ngân hàng tốt”. Những tài sản tốt – xấu được phân chia lại giá trị để tạo ra tài sản có thể cho vay mới). Đây là cách mà các nước trên thế giới thường đưa ra để bảo vệ hệ thống ngân hàng khi có nguy cơ khủng hoảng nợ xấu.
Chính phủ cần phê duyệt kế hoạch phát triển bất động sản, trong đó có rất nhiều dự án quy mô nhỏ có thể bắt đầu xây dựng gần như ngay lập tức khi được tháo gỡ, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Để phát triển dài hạn thì các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn có nhiều tiềm năng hơn, nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn so với việc phát triển một tòa nhà chung cư.
Cuối cùng, việc thu hút FDI chất lượng cao cần được tính đến khi dòng vốn này đang dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc.
Theo thống kê từ Harris Pilling, hơn 70% người Mỹ cho rằng các công ty Mỹ nên thu hẹp quy mô sản xuất tại Trung Quốc và Việt Nam là được chọn là điểm đến.
Ngay lúc này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) nên có những bước để thu hút dòng FDI chất lượng cao. Chẳng hạn, Bộ này có thể ghi nhận và khuyến khích các biện pháp kiểm soát dịch thành công, cách tiếp cận kiểm soát virus của các doanh nghiệp trong nước… để củng cố thêm sức hấp dẫn của Việt Nam đối với dòng vốn FDI.
LAN ANH