Khoảng trời ký ức

Nhớ về chiến khu xưa, là nhớ rừng núi cao, suối sâu, thác dữ, muỗi mòng. Nhớ những ngày oằn lưng với chiếc gùi và cây súng vắt ngang vai, với những đêm mưa dầm, sốt rét rung người, bụng thóp rau dớn, bên bếp lửa bập bùng nơi nhà sàn cùng bà con dân tộc. Nhớ những ngày quần nhau với giặc, ngập ngụa trong khói lửa B52, bom napan khét lẹt và chất độc da cam tanh tưởi ghê người. Nhớ về tuổi thơ vụng dại, bạn bè, đồng chí...sao tôi còn nhớ cả những điều vu vơ, những nét chấm phá tình cờ của quá vãng, mênh mang, choáng ngợp cả trí tưởng mình.

Nữ TNXP trong kháng chiến chống Mỹ.

1. Nhiều lần đi ngang qua trường. Vẫn là mái trường xưa, chỉ thiếu đi một vài góc nhỏ, những luống hoa vạn thọ vàng, vài hàng chuối nước và chiếc cổng trường thay màu trang điểm. Ở đó tôi ngu ngơ chờ Lan, áo trắng sân trường và mái tóc dài huyền hoặc làm tôi thẩn thờ. Ôi Chrysenthems! Tôi đã viết thư cho Lan bằng cái tên gọi đó "Chrysenthems" (Dạ Lan). Thế mà, dễ đến 30 năm sau cuộc chiến tôi mới gặp lại thật tình cờ. Lan đã là người viết văn, viết báo. Hôm ở nhà ông anh rể của Lan, nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Bội Liên- cầm trên tay tập thơ "Đêm trăng cố quận" của ông, lơ đễnh, Lan hỏi tôi: "Còn nhớ Hội An không?". Tận trái tim sâu thẳm tôi, những con đường phố Hội êm đềm mùa lá rụng, những tàng phượng vĩ chói đỏ khi hạ về, những gánh quà rong trong tiếng rao đêm xa vắng, những mái chèo lơi dưới bến sông Hoài, những mái ngói rêu phong im lìm muôn thuở, mùi trầm hương lễ giáo trong tiếng chuông chùa đồng vọng và cả ngôi trường-tất cả như ở ngay trong căn phòng chúng ta đang sống vậy. Ở đó không gian, thời gian, âm thanh, ánh sáng, vui buồn, hạnh phúc, đoàn tụ, chia xa như vây bọc..., làm sao quên được!..

Lại càng không quên cái đêm đám cảnh sát ngụy ở thị xã Hội An, bất ngờ ập vào nhà trọ còng tay Lan, cùng với chiếc cặp truyền đơn, bản tin vắn và mấy tập mỏng in thơ Tố Hữu, Quang Dũng, Hồng Nguyên chưa kịp chuyển đi. Chúng bỏ Lan lên xe cây chở về đồn tống giam. Và những ngày sau đó là đòn tra... Cái "con nhỏ Việt cộng nằm vùng" từ chợ Bà ra đi học, nay vẫn còn làm văn, làm báo nghiệp dư âm thầm ở tuổi 60 nơi thành phố bên sông Hàn, sau ngày hòa bình trở về trên xứ sở này.

2. Tôi đã gặp Duy Phương, không phải ở phố Hội thanh bình, mà nơi chiến tranh diễn ra ác liệt trên miền Tây xứ Quảng. Cách bến đò Tân Thuận, đầu nguồn con sông Thu Bồn không xa, và quá nửa là đất Bà Huỳnh, Bà Xá huyện Phước Sơn heo hút, đầy muỗi mòng, thú dữ. Phương về ở đó, xã Quế Bình, trong một mùa xuân cách mạng. Đất giải phóng 1964, lũ lụt chết người, thiếu gạo muối, thuốc men và bọn địch thậm thụt vào ra đánh phá. Rồi vùng giải phóng mở dần ra. Phương không trở lại mái trường xưa nữa mà trở thành cô cán bộ tuyên-văn-giáo của huyện nhà Quế Sơn.

Không lâu, tôi lại gặp Phương, như đã từng gặp ở đâu đó trong rủi ro của chiến tranh. Nhưng lòng tôi đã phải thắt lại, nước mắt nuốt thầm trước một thân thể tật nguyền, lê đôi chân trên đôi nạng gỗ. Kẻ thù đã giết chết tuổi thanh xuân của Phương vì Phương không thể chịu được khi nhìn đồng đội mình ngã xuống trong một trận tập kích bất ngờ của địch. Phải bảo vệ máy móc, tài liệu và dìu anh em đi băng bó, quyết không để bọn địch bắt sống mình. Chúng cố giằng Phương ra, cô ôm chặt lấy gốc cau trước sân, trì lại, miệng chưởi như tát nước vào mặt bọn quỷ dữ trong tiếng máy bay trực thăng gầm rú. Nhưng làm sao chống chọi nổi trước đám lính hùng hổ, vừa nổ súng, đánh đập, vừa lùng sục, hò hét. Phương lã người. Bọn chúng đã lôi được Phương lên trực thăng, chở ra hạm tàu. Và những ngày sau đó là những đòn tra tấn, hành hạ Phương đến thân tàn, đôi chân dập nát, tê liệt nhưng chúng không thể nào cạy răng khai thác được ở cô chút bí mật nào về cách mạng...

Tôi có viết về Phương (không biết nên gọi thể loại nào của văn chương cho đúng), nhưng rồi cũng để cái đề tựa thật sáo rỗng "Phương và tiếng hát đỏ". Số là khi Phương lãnh án tù, hai chân bị địch tra tấn tê liệt, nằm một chỗ, suốt ngày Phương ca hát, mà hát toàn những bài ca cách mạng như say đắm, cuốn hút người nghe. Bọn địch chỉ biết hậm hực. Chuyện đã đăng ở báo Phụ nữ Việt Nam khá lâu rồi, khi tôi còn ở Hà Nội. Tôi có đưa Phương đọc thì phải. Còn bây giờ, Phương đang sống với những ngày còn lại, ít ra là trong lòng bè bạn và kỷ niệm về chiến tranh chưa xa được Phương kể lại trong tác phẩm "Tôi nghe tôi hát" (NXB Hội Nhà văn) như một tráng ca lai láng sắc màu cuộc đời đầy ắp buồn vui.

3. Những ngày cuối đông, tháng Chạp năm 1967. Trong cái giá lạnh của núi rừng, mà như có lửa. Tất bật, dồn nén, chờ đợi... Tại khu rừng đại ngàn Nhụ Sơn, miền tây thị xã Tam Kỳ, Quảng Nam, có trên hai mươi cô gái vừa được đưa từ thành phố, thị xã ra vùng giải phóng để chuẩn bị cho một ngày trọng đại. Vì nhiệm vụ "cơ mật", các cô gái phải bị "cách ly" hoàn toàn, tập trung cho học tập, và sau đó đưa vào lại thành phố. Cậu giao liên Tài, cậu em thân thiết của tôi ở cùng cơ quan có "diễm phúc" đón và đưa các cô về cứ, đã không giữ được bí mật, rỉ vào tai tôi: "Có một cô đẹp như tiên sa!". Thế mà trong cơ quan, đám trai trẻ chúng tôi đã nhanh chóng thì thầm lan truyền về "nàng tiên" chưa hề thấy mặt, chưa biết chính danh, chưa rõ nguồn cơn nào cô lại được chọn để lên chốn rừng thiêng nước độc này, rồi nay mai phải ra tuyến lửa...

Sau ngày tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 68, các cánh quân trở về lại đơn vị. Buổi họp mặt đầu tiên của cơ quan Tuyên huấn không được báo trước. Trong nỗi đợi chờ, tay bắt mặt mừng, kẻ còn người mất sau chiến dịch trở về, tôi đã bàng hoàng, sửng sốt và choáng ngợp đến không tin vào mắt mình. Cái cô gái "như tiên sa" đấy ư - Thanh Tuyền của Snack Bar Thiên Thu ở thị xã đây sao! Tôi như muốn ào đến ôm lấy Tuyền. Nhưng rồi kịp đè nén sự hồi hộp đến nghẹt thở nơi lồng ngực mình. Tôi chưa là người thân thiết nhất của Tuyền, nhưng là "đồng hương" nay là "đồng chí" với nhau mới toanh. Hồi đó, chúng tôi như Nguyễn Nho Sa Mạc, Hồ Luân, Nguyễn Khánh Trường, Huyền Châu, Hoàng Yên Xuân... vừa đi học, vừa làm thơ mơ mộng, ca ngợi quê hương, cầu nguyện hòa bình, từng làm "cái đuôi", "cái bóng" của Tuyền giai nhân ngày còn lang thang đèn sách. Nay tình cờ gặp nhau, rồi ăn chung một nồi cơm, uống chung một ca nước, mắc võng gần nhau, chúng tôi có dịp hàn huyên với nhau cơ man nào là chuyện, không như hồi nào, tối thứ bảy, chủ nhật tụm nhau dưới ánh đèn Thiên Thu Bar để khao khát ngắm Tuyền, đắm theo lời ca đẫm lệ "Buồn vào hồn không tên, khi thức giấc nửa đêm, nhớ chuyện xưa vào đời"...

Và có lẽ, chúng tôi là hai người thân nhất trong cơ quan, kể từ cái ngày định mệnh gặp lại nhau ấy... Tuyền từ thị xã Tam Kỳ, thôi làm ở quán bar (một cơ sở cách mạng của người bà con) về quê và trở thành cô giáo vùng giải phóng huyện Thăng Bình vừa mới mở ra. Chưa được mấy ngày thì được trên điều lên rừng làm nhiệm vụ mới. Sau Tết Mậu Thân 1968, Tuyền được giữ lại làm việc ở báo Giải Phóng. Cơ quan đóng ở nóc Ông Đề, trong ngôi nhà sàn nhỏ của bà con dân tộc Cơ Tu, bên con sông Vàng, gần mỏ vàng Bông Miêu. Những lúc rỗi rãnh, Tuyền mắc võng đung đưa, ê a học tiếng dân tộc và thường nhẩm hát một mình. Tuyền không chỉ đi hái rau rừng giỏi, nấu ăn ngon, biên tập tin, bài tinh tế mà còn hát khá hay... Chưa bao giờ cuộc chiến tranh lại gian khổ và ác liệt như năm 69. Địch phản ứng bằng những trận B52 rải thảm, bom tọa độ, pháo bầy khốc liệt, càn quét liên miên. Đường dây giữa vùng đông với vùng tây tắc nghẽn. Gạo mắm thiếu hụt, đau ốm hành hạ không từ một ai. Giữa những ngày quê hương khói lửa ngút trời ấy, Tuyền đã nằm xuống lặng lẽ. Sức nặng của chiếc gùi 50kg trên đôi vai cô gái mảnh dẻ, cùng với chứng đau tim không ai biết và một đêm thức trắng ở nhà dân vùng ven để xay giã, giần sàng hàng chục ang thóc, nhanh chóng cùng anh em gùi gạo về cơ quan trước khi trời sáng đã làm Tuyền lả người khi đang lần dò từng bước leo lên con dốc cao Phường Mít, huyện Nam Tam Kỳ. Tuyền không bước nổi nữa!

Tuyền phải nằm nghỉ lại nơi đỉnh đèo, chờ anh em cơ quan xuống đưa về. Nhưng mấy ngày đó bọn Mỹ đổ quân chốt các lối đi vùng An Lâu, Phường Mít. Tuyền đã nằm lại đỉnh đèo đang mùa hoa sim, mùa hoa tím cả một vùng chiến khu heo hút nắng gió và mây ngàn. Không ngờ, nơi đây lại nơi an nghỉ cuối cùng và mãi mãi của Tuyền.

Mấy hôm sau được nghe kể lại. Sớm ấy, có một cán bộ trên đường đi công tác, khi lên đỉnh dốc dừng lại dò la tình hình địch đổ quân gần đấy, bắt gặp một cô gái nằm thiếp trên chiếc võng buộc vào thân cây, da mặt tái xanh, chiếc xắc con để trên người. Anh chưa kịp tìm cách cứu thì cô đã tắt thở qua cái cựa mình và tiếng rên hao hụt. Anh đã cùng vài dân làng gần đó chôn cất cô trong chiếc võng làm áo quan, chèn vài viên đá núi làm mộ. Chiếc xắc con anh đã chuyển về cơ quan qua đường giao liên, khi anh đọc được trong cuốn nhật ký, biết được nơi cô công tác. Hai năm sau tôi mới đọc được những lời sâu nặng của Tuyền, do Việt Tiến, thủ trưởng của tôi, cất giữ rất lâu rồi trao lại cuốn nhật ký riêng tư đó: "Có một ngày nào đó phải không anh, ngày đẹp làm sao. Anh là của ai, anh có biết không? KS, 5/3/69...".

Tôi đã viết về Tuyền trong một bút ký đăng ở báo Giải Phóng Xuân 1969 có tên "Mùa rước kiệu Bà": "...Hằng năm vào tiết thanh minh, làng chợ Được có Lễ hội rước kiệu Bà náo nhiệt. Tuyền là cô gái duy nhất trong làng, nhiều lần được chọn để trang điểm ngồi trên kiệu hoa, được dân làng khiêng đi trong cờ phướn, chiêng trống, nhã nhạc, hương trầm và xướng lễ tưng bừng. Lễ rước cầu vọng cho đất nước thái bình, dân cư lạc nghiệp, yên vui... Tuyền là hiện thân, hình ảnh của nữ thần sắc đẹp và đức tính nhân hậu, bao dung của Đức Bà...".

... Trong sự nghiệp cách mạng lớn lao này, đã có những người con gái chân yếu tay mềm, bằng tình yêu Tổ quốc và sự hăm hở thanh xuân, đã tham gia vào cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc. Sự gan dạ, hy sinh của họ đã góp phần làm nên những chiến công thần kỳ của một thời đánh giặc.

HOÀNG HƯƠNG VIỆT

Nguồn CAĐN: http://cadn.com.vn/news/65_182553_khoa-ng-tro-i-ky-u-c.aspx