Khám phá lăng Tự Đức, nơi 'hút khách' nhất cố đô Huế

Lăng Tự Đức có kiến trúc hoa mỹ, nằm trong một khung cảnh sơn thủy hữu tình, được coi là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của Cố đô Huế.

Tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế, lăng Tự Đức là điểm đến thu hút du khách bậc nhất trong các lăng tẩm vua chúa ở Cố đô Huế.

Đây là một quần thể gồm gần 50 công trình, hầu hết đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Từ cửa Vụ Khiêm, một con đường lát gạch chạy men theo hồ Lưu Khiêm dẫn vào trong khu lăng.

Hồ Lưu Khiêm được người đời coi là hồ nước đẹp nhất nhì của kinh thành Huế. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm rợp bóng cây xanh, được bài trí nhiều hòn non bộ và lầu vọng cảnh. Bên bờ hồ có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, hai nhà thủy tạ để vua ngồi ngắm hoa, làm thơ, đọc sách...

Khu tẩm điện nằm ở phía Tây của hồ Lưu Khiêm, được bắt đầu bằng Khiêm Cung Môn, một công trình hai tầng dạng vọng lâu nằm trên nền cao.

Khiêm Cung Môn nằm thẳng hàng với Dũ Khiêm Tạ phía dưới theo trục chính của khu tẩm điện.

Trung tâm của khu tẩm điện là điện Hòa Khiêm. Khi vua Tự Đức còn sống, đây là nơi vua làm việc mỗi khi đến lăng.

Sau khi vua băng hà, điện Hòa Khiêm trở thành là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu.

Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.

Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát.

Nội thất của nhà hát Minh Khiêm. Đây được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam còn tồn tại.

Có một hành lang từ Ôn Khiêm Đường dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm, là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, khi vua còn sống cũng như khi đã băng hà. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Các công trình này ngày nay chỉ còn là phế tích.

Phía trái khu tẩm điện có Chí Khiêm Đường, là nơi thờ các bà vợ của vua.

Từ tẩm điện, một con đường quanh co dẫn sang khu lăng mộ. Công trình đầu tiên ở nơi đây Bái Đình.

Sau Bái Đình là khoảng sân với hai hàng tượng quan viên văn võ và tượng voi, ngựa.

Cuối sân là là Bi Đình (nhà bia).

Trong Bi Đình có tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài "Khiêm Cung Ký" do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia "Thánh đức thần công" theo quy ước.

Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của vua trước lịch sử.

Hai bên Bi Đình tấm bia là hai trụ biểu sừng sững, tượng trưng cho hai ngọn đuốc tỏa sáng.

Sau Bi Đình là hồ Tiểu Khiêm hình trăng non, có ý nghĩa như bầu đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.

Sau hồ Tiểu Khiêm là Bửu Thành, bức tường thành bao quanh mộ vua.

Mặt trước Bửu Thành là cánh cổng hai tầng mái, được khảm sứ khá cầu kỳ.

Sau cánh cổng là bình phong, và vòng thành thứ hai bao quanh mộ phần.

Mộ vua được xây bằng đá, có hình dáng như một ngôi nhà (thạch thất) , đặt trên ba cấp nền cũng làm bằng đá. Đầu mộ có một bàn thờ bằng đá.

Nằm ở phía Bắc của lăng mộ vua là khu lăng mộ Lệ Thiên Hoàng Hậu (Vũ Thị Duyên, 1828 - 1903) - vợ cả vua Tự Đức, được gọi là lăng Khiêm Thọ.

Mộ phần của Lệ Thiên Hoàng Hậu xây bằng đá, kiểu dáng tương tự mộ vua.

Từ mộ Lệ Thiên Hoàng Hậu đi tiếp về phía Đông sẽ đến Bổi Lăng - lăng mộ vua Kiến Phúc, một trong ba người con nuôi của vua Tự Đức.

Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không trùng lặp và rất sinh động.

Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối xứng từng cổ điển ở một số lăng khác.

Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Có thể coi đây là một kiệt tác về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn.

Ẩn sau những đường nét kiến trúc hoa mỹ, lịch sử xây dựng lăng gắn liền với một bi kịch trong sự nghiệp của vua Tự Đức.

Sau khi lên ngôi, Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ đầy thơ mộng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh. Lăng được khởi công năm 1864 với 5 vạn nhân công.

Khi mới khởi công xây dựng, vua lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho công trình với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ cùng lối hành xử tàn nhẫn của các viên quan đã làm bùng nổ cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.

Do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn Niên Cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội.

Năm 1873, Khiêm Lăng được hoàn thành sau 9 năm xây dựng. Vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.

Do các biến động của thời cuộc, nhiều công trình của lăng đã xuống cấp hoặc sụp đổ. Sau các đợt trùng tu lớn những năm gần đây, sự tráng lệ của một trong những lăng tẩm đẹp nhất thời Nguyễn đã dần được khôi phục, góp phần làm nên diện mạo đặc sắc của quần thể di tích Cố đô Huế, Di sản thế giới được UNESCO công nhận..

Quốc Lê

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: http://kienthuc.net.vn/di-san/kham-pha-lang-tu-duc-noi-hut-khach-nhat-co-do-hue-949002.html