Khả năng cuộc đại suy thoái (K4): Ngòi nổ từ Hoa Kỳ

Hoa Kỳ hiện vẫn đang giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Nhưng vấn đề của Hoa Kỳ là nợ công đã ở mức quá cao và bong bóng chứng khoán tại đây lớn nhất thế giới, vì sự lệch lạc của dòng vốn đầu cơ.

Như vậy áp lực giảm phát của Hoa Kỳ và cú đổ vỡ bong bóng chứng khoán nguy cơ góp phần làm cho cuộc khủng hoảng 2017-2019 trở nên tồi tệ.

Nợ công đã lên mức nguy hiểm

Tổng nợ của Hoa Kỳ vào cuối năm 2015 là 67.500 tỷ USD, cao hơn 15,8% so với đầu năm 2009. Con số 5.000 tỷ USD vào thời điểm bắt đầu bong bóng năm 1983, cho đến đỉnh điểm năm 2008 tổng nợ đã tăng gấp 11 lần, đạt 56.000 tỷ USD. Để đạt tới mức nợ này, tăng trưởng nợ đã gấp 2,54 lần tăng trưởng GDP trong 26 năm, có nghĩa tổng nợ gấp tới 13,5 lần so với thời điểm bắt đầu bong bóng vào năm 1983. Đây là cách bong bóng nợ hình thành và một lần nữa quá trình giảm đòn bẩy phải diễn ra.

Hoa Kỳ chiếm tới 25% GDP toàn cầu và giữ vai trò quan trọng trong các giao dịch tài chính quốc tế. Do đó, sự bất ổn của kinh tế nước này có thể đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn thụt lùi kinh tế thế giới, nhưng không đồng nghĩa với sự suy thoái kinh tế sẽ xảy ra trên toàn cầu. Tuy nhiên nó sẽ khiến nhiều nước trải qua một giai đoạn tăng trưởng chậm chạp.

Năm 2008 có thể được xem là thời điểm kết thúc bong bóng nợ. Nhưng thật không may, chính sách in tiền khổng lồ và chính sách tài khóa không cho phép điều đó. Theo đó, mức nợ năm 2009 tiếp tục tăng trưởng 48% khi thâm hụt ngân sách liên bang vượt 2.000 tỷ USD do các chính sách trên. Trong đó, nợ doanh nghiệp tăng 10,4% khi các doanh nghiệp vay hơn 3.000 tỷ USD nhằm mua lại cổ phiếu của họ và tạo ra bong bóng giả tạo bằng dòng tiền miễn phí từ FED.

Tình hình còn tồi tệ hơn khi ngày 8-9-2017, Bộ Tài chính Hoa Kỳ cho biết nợ công của nước này đã tăng từ 19.800 tỷ USD lên mức 20.100 tỷ USD, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử nợ công Hoa Kỳ vượt qua mốc 20.000 tỷ USD. Chính phủ Hoa Kỳ đã giữ con số này dưới mốc 20.000 tỷ USD trong 3 tháng do Quốc hội không thông qua việc tăng trần nợ, buộc Bộ Tài chính phải đi vay ở các thị trường mở.

Tuy nhiên, từ sau khi Tổng thống Donald Trump ký sắc lệnh tăng trần nợ và Bộ Tài chính bắt đầu thực hiện các khoản vay thông thường, đã góp phần làm mức nợ công đã tăng thêm hơn 300 tỷ USD.

Ông Michael A. Peterson, Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Quỹ Peter G. Peterson, cho biết đây là dấu hiệu cho thấy tình hình tài chính Hoa Kỳ không tốt. Ông dự đoán trong vòng 10 năm tới, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ phải trả khoản tiền lãi lên tới 6.000 tỷ USD, khoản tiền mà ông gọi là “khoản đầu tư cho quá khứ thay vì tương lai”.

Giảm phát theo sau giảm đòn bẩy
Bong bóng nợ tạo ra giảm phát khi mọi người phải giảm đòn bẩy. Tiền và của cải sẽ biến mất, chỉ còn lại một ít tiền để mua số lượng hàng hóa. Sẽ không hiểu chuyện gì xảy ra từ hành động in tiền chưa từng có tiền lệ của FED. Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ không đạt được tỷ lệ lạm phát 2% từ năm 2009, dù FED đã in ra hàng ngàn tỷ USD. Vì thế, khi nền kinh tế sụp đổ trong vài năm tới, chỉ riêng ở Hoa Kỳ có thể 21.000 tỷ USD (hoặc thậm chí là nhiều hơn thế) sẽ biến mất ngay trong đợt suy giảm đầu tiên. Con số này chính là khoản nợ tư nhân đã tạo ra từ năm 2000-2008 trong đợt bong bóng đầu tiên. Mức sụt giảm trên toàn thế giới sẽ còn lớn hơn nhiều khi bong bóng đổ vỡ.

Dòng vốn chảy mạnh vào chứng khoán mang tính đầu cơ cao nguy cơ dễ đổ vỡ.

Nguyên nhân bởi giảm phát là xu hướng tự nhiên khi xuất hiện giảm đòn bẩy nợ và các tài sản tài chính, trừ khi chính phủ có một sức mạnh cực lớn để chống lại nó, điều khó có được ở thời điểm hiện tại. Ngoài ra, các nỗ lực của FED nhằm ngăn chặn cuộc sụp đổ không thể tránh khỏi càng tạo ra kịch bản xấu hơn. Khi cố giữ bong bóng càng lâu, sự mất cân bằng giữa các tài sản tài chính và đầu tư lệch hướng sẽ càng lớn, do đó tình trạng mất cân bằng thu nhập sẽ tạo ra đợt giảm đòn bẩy tài chính còn tồi tệ hơn.

Nói tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo và sự sụp đổ sắp tới của thị trường chứng khoán sẽ còn tồi tệ hơn cả những gì đã xảy ra vào năm 2008. Theo đó, Hoa Kỳ đang đối chọi với giảm phát thay vì lạm phát thấp. Đó là giảm phát đang nằm tận sâu bên trong nền kinh tế, giống như căn bệnh ung thư của nền kinh tế. Nó gặm nhấm hệ thống và cơ sở hạ tầng một cách từ từ, giết chết nền kinh tế từ bên trong.

Thông thường, bệnh nhân ung thư không biết sự tồn tại của căn bệnh đáng sợ này cho đến khi nó bắt đầu bộc phát. Vì thế, mặc dù người dân Hoa Kỳ đang phải chi trả nhiều hơn khi mua hàng ở cửa hàng tạp hóa và chi phí chăm sóc sức khỏe, nhưng có nhiều lĩnh vực đang ngày càng trả ít hơn.

Bong bóng chứng khoán
Các nỗ lực của FED nhằm ngăn chặn cuộc sụp đổ không thể tránh khỏi càng tạo ra kịch bản tồi tệ hơn. Khi cố giữ bong bóng càng lâu, sự mất cân bằng giữa các tài sản tài chính và đầu tư lệch hướng sẽ càng lớn, do đó tình trạng mất cân bằng thu nhập sẽ tạo ra đợt giảm đòn bẩy tài chính còn tồi tệ hơn. Lý do các ngân hàng trung ương, khởi đầu là FED, sau đó là châu Âu (ECB) và Nhật Bản (BOJ), đang buộc phải rút lại các gói nới lỏng định lượng do họ đang mất kiểm soát định hướng dòng vốn. Tiền in ra không được chảy vào người tiêu dùng và các doanh nghiệp muốn đầu tư dài hạn. Thay vào đó, tiền được chảy vào những nhà đầu cơ và họ dùng nguồn tiền này để tăng vị thế mua trên thị trường cổ phiếu, trái phiếu.

Sự lệch lạc dòng vốn đầu tư cũng thể hiện ở các doanh nghiệp Hoa Kỳ khi không sử dụng nguồn vốn giá rẻ để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn nhằm tạo dựng giá trị cho doanh nghiệp, thay vào đó tăng vay nợ để mua lại cổ phiếu nhằm hỗ trợ giá cổ phiếu. Theo tính toán của Harry Dent, 40% tăng lên trong EPS của các công ty trong chỉ số S&P 500 từ 2009-2016 là do tác động của việc mua lại cổ phiếu (buyback), không phải do sự phát triển của hoạt động kinh doanh chính.

Tác động của việc mua lại cổ phiếu đã ảnh hưởng mạnh đến chỉ số S&P 500. Từ giữa quý II-2016 đến nay, dù các doanh nghiệp đang giảm mua cổ phiếu nhưng giá cổ phiếu vẫn tăng. Đây là sự phân kỳ xảy ra do các hành vi lực quán tính đầu cơ ở giai đoạn cuối xu hướng tăng. Các hành vi phi lý trí này có thể kéo dài lâu hơn dự đoán, khi lợi nhuận biên được điều chỉnh lạm phát so với GDP đã đạt đỉnh và đi xuống. Mỗi lần tỷ lệ này đạt đỉnh đều tương ứng với một cuộc khủng hoảng nào đó.

Trong khi lợi nhuận biên thực đã đạt đỉnh, việc chỉ số S&P 500 tăng điểm chỉ là hành động vô nghĩa. Nó được kéo dài bởi làn sóng đầu cơ. Hậu quả của việc mua lại cổ phiếu quá mức và vay mượn nhiều là sự cạn kiệt về dòng tiền của các doanh nghiệp. Điều này đã từng diễn ra tại đỉnh năm 2000 và đỉnh năm 2007. Từ quý I-2016 đến quý II-2017, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã chi 2.200 tỷ USD cho chi tiêu vốn và mua lại cổ phiếu trong khi dòng tiền và vay nợ mới chỉ 1.900 tỷ USD. Điều này khiến mức thâm hụt dòng tiền lên đến mức cao kỷ lục 300 tỷ USD. Thiếu hụt tiền, đồng nghĩa doanh nghiệp khó có thể hỗ trợ đà tăng giá cổ phiếu bằng hoạt động mua lại cổ phiếu.

TS. Lê Đạt Chí - Trương Minh Huy

Nguồn SGĐT: http://saigondautu.com.vn/ho-so/kha-nang-cuoc-dai-suy-thoai-k4-ngoi-no-tu-hoa-ky-53737.html