Integrase mang lại nhiều cơ hội ức chế virus khi sinh

Các nhà nghiên cứu trong nghiên cứu về raltegravir nói rằng phát hiện của họ ủng hộ sử dụng phương thức điều trị ARV có raltegravir trong thời kỳ mang thai, đặc biệt dành cho những phụ nữ bắt đầu điều trị muộn khi mang thai.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Điều trị dựa trên ức chế integrase bằng raltegravir (Isentress) hoặc doulutegravir (Tivicay, cũng có trong Triumeq) làm giảm tải lượng virus nhanh hơn efavirenz nếu bắt đầu dùng thuốc trong thời kỳ mang thai, đây là kết quả phát hiện từ hai nghiên cứu ngẫu nhiên được trình bày tại Hội nghị Retrovirus và Nhiễm trùng cơ hội (CROI 2019) đang diễn ra tại Seatle.

Các nhà nghiên cứu trong nghiên cứu về raltegravir nói rằng phát hiện của họ ủng hộ sử dụng phương thức điều trị ARV có raltegravir trong thời kỳ mang thai, đặc biệt dành cho những phụ nữ bắt đầu điều trị muộn khi mang thai.

Giáo sư Saye Khoo của trường Đại học Liverpool nói rằng phát hiện trong nghiên cứu DOLPHIN-2 về bắt đầu điều trị dolutegravir khi mang thai muộn gượi ý rằng dolutegravir là loại thuốc có thể sử dụng trong những tình huống nguy cơ cao lây truyền mẹ con.

Nhiều phụ nữ nhiễm HIV biết tình trạng HIV của họ khi họ được làm xét nghiệm lúc mang thai, thuông thường là sau ba tháng đầu tiên. Làm giảm tải lượng virus nhanh chóng trong khi mang thai có vai trò quan trọng nhằm giảm tải lượng virus tới mức không phát hiện được lúc sinh nở. Tải lượng virus không phát hiện được khi sinh làm tăng tối đa cơ hội HIV không lây truyền snag cho con khi sinh.

Tuy nhiên, để đạt được tải lượng virus không phát hiện được khi sinh phụ nữ mang thai cần phải chẩn đoán HIV và bắt đầu điều trị kịp thời để ức chế tải lượng virus. Tai Nam Phi, một phần năm số phụ nữ mang thai bắt đầu điều trị trong ba tháng sau của hai kỳ (từ tuần thứ 24 trở đi).

Thuốc ức chế integrase làm giảm tải lượng virus nhanh chóng hơn các thuốc ARV khác nên kết hợp thuốc có ức chế integrase có thể là hy vọng tăng khả năng áp chế virus lúc sinh ở phu nữ bắt đầu điều trị ARV trong khi mang thai.

Tuy nhiên hiệu quả và an toàn của điều trị ức chế integrase khi mang thai chưa từng được nghiên cứu trong một thử nghiệm ngẫu nhiên nào trước đây.

Chế độ điều trị sử dụng thuốc ức chế integrase hiệu quả hơn efavirenz (loại thuốc gần đầy được khuyến cáo trong chăm sóc tiêu chuẩn cho phụ nữ mang thai) nhằm ức chế tải lượng virus khi mang thai.

An toàn là mối quan tâm chủ yếu. Mặc dù thuốc ức chế integrase thường được sử dụng để điều trị cho hàng chục ngàn người, số liệu về sử dụng các thuốc này ở phụ nữ mang thai chưa có nhiều, đặc biệt là từ những thử nghiên cứu ngẫu nhiên

Số liệu ban đầu từ một nghiên cứu theo dõi ở Botswana cho thấy nguy cơ khiếm khuyết ống thần kinh ở trẻ có tiếp cận với dolutegravir trong 12 tuần đầu khi mang thai tăng cao. Bào thai dễ bị khiếm khuyết bẩm sinh do tiếp xúc với thuốc trong 12 tuần đầu khi các mô và cơ quan hình thành. Ở giai đoạn muộn của thai kỳ (sau tuần 12), tiếp xúc với thuốc có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ hoặc dẫn đến sinh non hay gây ra tác dụng phụ cho mẹ.

Hồng Nhung

Nguồn Đảng Cộng Sản VN: http://cpv.org.vn/khoa-giao/integrase-mang-lai-nhieu-co-hoi-uc-che-virus-khi-sinh-534768.html