Hòa giải, đối thoại tại tòa: Thẩm phán phải giữ bí mật thông tin đương sự

Với 90,27% đại biểu tán thành, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã được Quốc hội thông qua tại phiên họp chiều nay (16/6).

Với 9 Chương, 42 Điều, phạm vi điều chỉnh của Luật là những tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà đương sự có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC).

Quá trình thảo thuận về dự luật trước đó, theo Chủ nhiệm Ủy Tư pháp Lê Thị Nga, có ý kiến đềnghị bổ sung quy định Thẩm phán có trách nhiệm bảo mật thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 4 để bảo đảm thống nhất với quy định tại điểm e khoản 1 Điều 8 của dự thảo Luật.

Kết quả biểu quyết thông qua Luật

Kết quả biểu quyết thông qua Luật

Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, để bảo đảm sự thống nhất giữa khoản 1 Điều 4 và điểm e khoản 1 Điều 8, dự thảo Luật đã chỉnh lý lại điểm e khoản 1 Điều 8, theo hướng “các bên tham gia hòa giải, đối thoại có quyền yêu cầu Hòa giải viên, người tham gia hòa giải, đối thoại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, Thẩm phán tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại giữ bí mật thông tin do mình cung cấp”.

Dự thảo trình Quốc hội thông qua cũng đã chỉnh lý khoản 6 Điều 30 theo hướng “Thẩm phán tham gia phiên họp ký xác nhận biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại và phải giữ bí mật thông tin về hòa giải, đối thoại do các bên cung cấp tại phiên họp theo yêu cầu của họ”.

Đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 4 theo hướng các bên không được tiết lộ thông tin mà mình biết được trong quá trình hòa giải, đối thoại cũng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo.

Vẫn liên quan đến việc bảo mật thông tin, có đại biểu đề nghị cân nhắc quy định “Trong quá trình hòa giải, đối thoại không được ghi âm, ghi hình, ghi biên bản hòa giải, đối thoại”. Ngược lại, ý kiến khác cho rằng cần quy định phải ghi âm, ghi hình, ghi biên bản hòa giải, đối thoại làm cơ sở cho Tòa án ra quyết định công nhận.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu

Giải trình việc này, UBTVQH khẳng định, bảo mật thông tin là một nội dung quan trọng, mang tính nguyên tắc xuyên suốt quá trình hòa giải, đối thoại được quy định trong dự thảo Luật và phù hợp với Điều 38 Bộ luật Dân sự (Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình).

Quy định như dự thảo Luật, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhằm bảo đảm quá trình hòa giải, đối thoại các bên có thể yên tâm trình bày với Hòa giải viên tất cả những vấn đề liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện, kể cả thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật nghề nghiệp, công nghệ, kinh doanh…

Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng so với hoạt động tố tụng do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tốtụng thực hiện (phải lập biên bản, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh…). Vì vậy, UBTVQH đềnghị Quốc hội cho được giữ như quy định dự thảo Luật.

Trước ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu các chủ thể này để lộ thông tin về hòa giải, đối thoại vào Điều 4 dự thảo Luật, UBTVQH cho biết, tại khoản 4 Điều 4 đã quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì bị xử lý theo quy định của pháp luật”.

Thực tiễn thi hành, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ bị xử lý về hành chính, dân sự, hình sự (trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Vì lẽ đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ như quy định của dự thảo Luật.

Giải trình về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên, UBTVQH cho biết, tương tự như trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, trình tựtố tụng được tiến hành khi có đơn khởi kiện, khiếu kiện của bên đi kiện. Hoạt động hòa giải, đối thoại được tiến hành khi bên đi kiện nộp đơn khởi kiện, khiếu kiện cho TAND có thẩm quyền và lựa chọn hòa giải, đối thoại theo quy định tại Điều 16 của dự thảo Luật.

“Trong trường hợp này, Tòa án sẽ phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật” – UBTVQH giải thích.

Cũng theo cơ quan giải trình, do yêu cầu thời gian xử lý đơn phải rất khẩn trương, nếu quy định Tòa án liên hệ với tất cả những người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan được nêu trong đơn khởi kiện, khiếu kiện và thông báo… thì riêng thời gian xử lý đơn có thể kéo dài hàng tháng, thậm chí cả năm.

Do đó, để bảo đảm vừa tôn trọng quyền tự do lựa chọn cơ chế hòa giải, đối thoại của các bên (trong đó có bên bị kiện), vừa bảo đảm giải quyết nhanh chóng vụ việc, dự thảo Luật chỉnh lý chặt chẽ theo hướng sau khi nhận được thông báo của Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại về việc chuyển vụ việc đến Hòa giải viên để tiến hành hòa giải, đối thoại, người bị kiện có quyền đồng ý, từ chối hoặc chấm dứt hòa giải, đối thoại vào bất kỳ thời điểm nào và yêu cầu Hòa giải viên chuyển vụ việc cho Tòa án giải quyết theo trình tự tố tụng tại khoản 1 Điều 8.

Liên quan đến ý kiến đề nghị bổ sung quy định, sau khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát để kiểm sát, UBTVQH nhận thấy, hòa giải, đối thoại tại Tòa án do Hòa giải viên tiến hành theo quy định của Luật này không phải là hoạt động tư pháp nên việc không quy định thông báo việc nhận đơn cho Viện kiểm sát là phù hợp với phạm vi chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.

Hải Triều

Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/hoa-giai-doi-thoai-tai-toa-an-tham-phan-phai-giu-bi-mat-thong-tin-cho-duong-su_94461.html