'Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Việt đang tụt hậu'

Theo đánh giá của PwC Việt Nam về hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Việt Nam, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong 4 năm qua đang tồn tại nhiều mối lo ngại. Các doanh nghiệp đã và đang thất thoát một lượng tiền đáng kể.

Chu kỳ tiền mặt (Cash to Cash cycle - C2C) của doanh nghiệp Việt Nam vào khoảng 68 ngày cho năm tài chính 2017, cao gấp 2 lần hoặc hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là một trong các kết quả chính trong báo cáo nghiên cứu mới nhất của PwC Việt Nam - Tăng trưởng bền vững và khả năng thanh khoản (“Cash for growth or growth for cash?”).

Nghiên cứu của PwC Việt Nam được thực hiện với 400 doanh nghiệp lớn nhất tính theo doanh thu đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX).

ROCE suy giảm, biên lợi nhuận hạn chế

Với các chính sách tiền tệ phù hợp và nguồn vốn FDI dồi dào, các doanh nghiệp đã tăng trưởng nhanh qua các năm, đạt mức 6,1%/năm cho giai đoạn 2013-2017. Dù con số này phản ánh tốc độ phát triển tốt của nền kinh tế về tổng thể, mức tăng trưởng lợi nhuận trong giai đoạn 2013 - 2017 của các doanh nghiệp ghi nhận ở mức hạn chế.

Mặt khác, tỷ suất sinh lời trên vốn sử dụng (ROCE) của các doanh nghiệp suy giảm dù tỷ lệ nợ trên vốn ngày một cao, chủ yếu do gia tăng vay mượn để đầu tư tài sản cố định.

Chu kỳ tiền mặt kéo dài đáng kể

Chu kỳ tiền mặt, số ngày trung bình doanh nghiệp cần để chuyển đổi nguyên liệu đầu vào thành dòng tiền từ hoạt động, đã kéo dài thêm 6 ngày trong 4 năm qua do vốn lưu động sử dụng để tạo ra doanh thu đang ngày một tăng. Tuy nhiên, lượng vốn này chủ yếu xuất phát từ việc vay mượn, hơn là từ lượng tiền được giải phóng tiền qua các nỗ lực cải thiện hoạt động nội tại.

Sử dụng vốn lưu động hiệu quả đạt tỷ suất tài chính vượt trội….

Theo báo cáo của PwC, kết quả tài chính giữa các doanh nghiệp quản lý tốt và quản lý chưa tốt vốn lưu động có sự khác biệt rõ rệt, trong đó, doanh nghiệp quản lý tốt vốn lưu động đạt hiệu quả tài chính vượt trội.

Nhóm doanh nghiệp với hiệu quả sử dụng vốn lưu động tốt ghi nhận C2C chỉ là 12 ngày, thấp hơn khoảng 20 lần so với C2C của nhóm doanh nghiệp chưa tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngoài ra, nhóm này cũng hiệu quả hơn trong việc duy trì khả năng thanh toán và ít phụ thuộc vào vay mượn để sử dụng cho các hoạt động doanh nghiệp thường ngày.

Hạn chế trong khâu quản lý các khoản phải thu khách hàng và hàng tồn kho là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nói trên. Điều này khiến doanh nghiệp phải kéo dài thời hạn thanh toán với nhà cung cấp để đảm bảo khả năng thanh khoản.

Trong số 400 doanh nghiệp được nghiên cứu, chỉ 15 doanh nghiệp thực sự rút ngắn được C2C của mình, đồng thời cải thiện hiệu quả tài chính trong cùng giai đoạn.

Nhưng còn nhiều hạn chế trong quản lý vốn lưu động so với các khu vực địa lý khác

So với các khu vực phát triển như Mỹ, châu Âu, châu Á, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng vốn lưu động chưa hiệu quả, với C2C cao hơn các khu vực phát triển như Mỹ, châu Âu từ 10 tới 40 ngày, và hơn các nước trong khu vực châu Á khoảng 15 ngày. Nguyên nhân chính đến từ sự thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn lưu động của các nhóm ngành như Kỹ thuật & Xây dựng, Chăm sóc sức khỏe và Hàng tiêu dùng.

Theo báo cáo của PwC Việt Nam, chỉ 6 trong số 14 ngành nghiên cứu cải thiện được năng lực quản lý vốn lưu động trong 4 năm qua. Các nhóm ngành ghi nhận cải thiện đáng kể gồm có Năng lượng & Tiện ích khác, Dầu mỏ & Khí đốt và Thương mại (khoảng 15%/năm), trong khi các nhóm ngành như Công nghệ - Truyền thông, Hàng tiêu dùng và Kim loại & Khai khoáng lại ghi nhận suy giảm nghiêm trọng (khoảng 10%/năm).

Khoảng 10 tỷ USD bị tồn đọng trong vốn lưu động thuần

Tồn đọng trong vốn lưu động thuần của các doanh nghiệp nghiên cứu vào khoảng 10 tỷ USD. Báo cáo của PwC Việt Nam cho thấy cơ hội giải phóng tiền mặt lên tới 40% giá trị tồn đọng trên (khoảng 4 tỷ USD) nếu các doanh nghiệp này đạt được C2C của nhóm 25% doanh nghiệp đứng đầu hiệu quả sử dụng vốn lưu động tối ưu.

Các nhóm ngành như Kỹ thuật & Xây dựng, Hàng tiêu dùng và Kim loại & Khai khoáng có lượng tiền mặt tồn đọng trong vốn lưu động lớn nhất và cũng là nhóm sở hữu cơ hội giải phóng tiền mặt nhiều nhất, chiếm khoảng 50% tổng giá trị ước tính.

Dựa vào kết quả hoạt động quá khứ, lượng tiền mặt giải phóng từ việc cải thiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động đủ để chi trả cho tổng vốn lưu động và nhu cầu chi phí đầu tư xây dựng cơ bản (Capex) cho 3 năm tới (khoảng 2,5 tỷ USD), tính từ năm tài khóa 2017.

Ông Mohammad Mudasser, Phó Giám đốc, Dịch vụ Tư vấn Quản lý vốn lưu động của PwC Việt Nam nhận định: “Chuỗi cung ứng chưa hiệu quả, cùng với sự thay đổi không ngừng nghỉ của môi trường và phương thức giao dịch, đi kèm với các giải pháp thanh toán tài chính chưa được tối ưu hóa là những lý do quan trọng nhất dẫn tới sự tụt hậu trong hoạt động quản lý vốn lưu động từ doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp khác trong khu vực và trên toàn thế giới”.

HỒNG QUÂN

Nguồn BizLIVE: http://bizlive.vn/kinh-doanh/hieu-qua-su-dung-von-luu-dong-cua-doanh-nghiep-viet-dang-tut-hau-3477728.html