Hai phương án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam

Bộ GTVT vừa có Tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam.

Theo tờ trình, dự án có tổng chiều dài dự án 1.559 km chạy dọc hành lang Bắc - Nam, đi qua 20 tỉnh, với điểm đầu ga Hà Nội, điểm cuối là ga Thủ Thiêm. Trong đó, có 60% chiều dài tuyến đi trên cao, 10% đi ngầm và 30% đi trên nền đất. Đoàn tàu được lựa chọn theo công nghệ động lực phân tán (EMU), tín hiệu điều khiển qua tuyến, tốc độ khai thác tối đa 320km/h (tốc độ thiết kế 350km/h), chỉ chuyên chở khách.

Dự án có tổng mức đầu tư hơn 1,33 triệu tỷ đồng (58,71 tỷ USD).

Dự án được chia thành 2 giai đoạn xây dựng: giai đoạn 1 có tổng mức đầu tư 516,6 nghìn tỷ đồng (24,71 tỷ USD), giai đoạn 2 là 772,6 nghìn tỷ đồng (34 tỷ USD).

Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam có tổng mức đầu tư dự kiến hơn 1,33 triệu tỷ đồng (58,71 tỷ USD). Ảnh minh họa

Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam có tổng mức đầu tư dự kiến hơn 1,33 triệu tỷ đồng (58,71 tỷ USD). Ảnh minh họa

Bộ GTVT trình 2 phương án phân kỳ đầu tư. Theo đó, phương án 1 phân kỳ theo chiều ngang, tức giai đoạn 1 đầu tư hoàn thiện và khai thác đoạn Hà Nội – Vinh và Nha Trang – TPHCM, giai đoạn 2 đầu tư nối 2 đoạn của giai đoạn 1 (Vinh – Nha Trang).

Phương án 2, phân kỳ theo chiều dọc (theo gọi ý của GS Lã Ngọc Khuê). Theo đó, giai đoạn 1 đầu tư hạ tầng toàn tuyến tuyến Hà Nội – TP.HCM, nhưng chưa điện khí hóa, chỉ đầu tư đoàn tàu diezel khai thác trước. Giai đoạn 2, trong quá trình khai thác đoàn tàu diezel tiếp tục hoàn thiện các công đoạn còn lại cho việc khai thác đoàn tàu điện khí hóa để thay thế.

Bộ GTVT nghiêng về lựa chọn phương án 1.

Về nguồn vốn, báo cáo nghiên cứu đề xuất sử dụng 80% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, số vốn còn lại (20%) kêu gọi tư nhân đầu tư (mua sắm đoàn tàu và một số thiết bị; chịu trách nhiệm vận hành khai thác, duy tu bảo dưỡng và trả phí thuê hạ tầng).

Theo phân tích của đơn vị tư vấn nghiên cứu (liên danh do Tổng công ty tư vấn thiết kế - Tedi đứng đầu), tỷ lệ này mang lại tính khả thi về hiệu quả tài chính.

Đánh giá tác động tới nền kinh tế hoặc nợ công, báo cáo nghiên cứu cho biết với trường hợp sử dụng 100% vốn trong nước, giá trị đầu tư hàng năm trong giai đoạn 1 tối đa chiếm 0,7% GDP và giai đoạn 2 tối đa 0,55% GDP. Trường hợp 100% vốn đi vay, với tình hình sử dụng và mức trả nợ công hiện nay của Chính phủ, dự án không làm vượt trần nợ công 65% theo quy định trong suốt hai giai đoạn đầu tư dự án.

Với tốc độ chạy tàu 320km/h, đoạn Hà Nội – TP.HCM sẽ hết 5 giờ 20 phút (nếu không dừng ở một số ga), hết 6 giờ 55 phút nếu dừng ở tất cả các ga. Thời gian khai thác từ 6-24h mỗi ngày. Mô hình quản lý khai thác dự án là tách bạch quản lý với kinh doanh, theo đó thành lập tổng công ty nhà nước quản lý hạ tầng, còn nhà đầu tư thành lập các công ty vận tải để vận hành, khai thác.

Về nguồn nhân lực, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam cần khoảng 13.773 nhân lực với các chuyên ngành khác nhau, trong đó giai đoạn đến năm 2030 cần đào tạo 5.182 người, đến năm 2040 cần đào tạo thêm khoảng 7.569 nhân lực và đến 2050 cần thêm khoảng 932 nhân lực. Để đáp ứng được nguồn nhân lực, cần có một đơn vị đào tạo đủ năng lực kết hợp với các trường đại học trong và ngoài nước, viện nghiên cứu đường sắt và chuyên gia nước ngoài hỗ trợ dự án.

Dự kiến, dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam sẽ được đưa ra lấy ý kiến Quốc hội vào cuối năm nay.

Minh Thái (Tổng hợp)

Nguồn Đất Việt: http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/hai-phuong-an-dau-tu-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-3375255/