GS Vũ Trọng Hồng: Nước của Việt Nam chưa đủ tiêu chuẩn

Theo GS.TS Vũ Trọng Hồng, an ninh nước ở Việt Nam chưa được hiểu đầy đủ. Nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế, nước ở Việt Nam chưa đạt chuẩn.

Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, an ninh nước là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các đại biểu Quốc hội, đặc biệt trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ, lũ lụt, sạt lở đất diễn ra phức tạp ở miền Trung thời gian qua.

Trước đó, tại hội nghị giải trình hồi tháng 8 của Ủy ban KH-CN-MT của Quốc hội về an ninh nguồn nước và quản lý an toàn hồ đập, các ý kiến cũng đều thống nhất rằng, nguy cơ mất an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập của Việt Nam là hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai, khi 63% nguồn nước mặt của Việt Nam được tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ.

Điều đó khiến chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước, chưa kể đến việc ứng xử của một số quốc gia ở thượng nguồn làm ảnh hưởng đến nguồn nước chảy vào Việt Nam.

Trước những lo ngại trên, báo Đất Việt đăng tải những chia sẻ của GS.TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT về an ninh nước và những đánh giá của ông về mức độ nghiêm trọng của nguy cơ mất an ninh nguồn nước của Việt Nam.

Hiểu về an ninh nước chưa đủ

Trong dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có đề cập đến an ninh nguồn nước như sau:

"Xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia. Hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế tài chính về khai thác, sử dụng tài nguyên nước bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt".

Ở đây, khái niệm an ninh nguồn nước được hiểu là phải đảm bảo đủ nước cho người dân.

Trước đó, trong Luật Thủy lợi cũng chỉ đề cập đến an ninh nguồn nước với một câu khi quy định về nguyên tắc trong hoạt động thủy lợi: "góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước". Còn trong Luật Tài nguyên nước thì không đề cập.

Như vậy, an ninh nguồn nước, theo cách của chúng ta hiện nay và trên các văn bản pháp luật, chưa được định nghĩa đầy đủ. Trên thế giới, khái niệm về an ninh nguồn nước đã tiến xa hơn.

Quốc tế định nghĩa an ninh nguồn nước là làm sao người dân hàng ngày có đủ lượng nước đúng tiêu chuẩn.

Nhưng để thực hiện được điều này dẫn giải không đơn giản. Chúng ta mới coi an ninh nguồn nước là phải đủ lượng nước, còn mặt chất lượng chưa được đề cập đầy đủ.

Nước hợp vệ sinh khác với nước tiêu chuẩn. Nước tiêu chuẩn là nước mà trước hết tất cả các độc tố, kim loại nặng phải được khử sạch, chứ không phải chỉ làm cho nước trong bằng cách khử qua cát sỏi. Hiện nay, nhiều trạm nước ở nông thôn mới chủ yếu xử lý độ đục và xử lý các chất gây ra bệnh truyền nhiễm ngoài da họ nên dùng clo.

Nhưng nước đủ tiêu chuẩn còn phải có thêm oxy để tạo ra nguồn nước lợi cho sức khỏe, chúng ta không làm được. Ngay ở các khu đô thị lớn/siêu đô thị, vốn được coi là nơi có nước sạch nhất, nước rất trong, để dài ngày thì quanh bồn nước vẫn không bị đen, nhưng độ pH (độ chua) chưa đảm bảo vì sờ vào nước để qua đêm vẫn bị nhớt. Để khử được pH thì rất tốn chi phí, mà để nồng độ này cao, ăn uống vào về lâu dài sẽ gây loãng xương.

Cho nên, gọi là nước tiêu chuẩn (tức theo chuẩn quốc tế) thì Việt Nam còn xa mới đạt được.

ĐBSCL phải đối mặt với tình trạng hạn hán ngày càng nặng nề. Ảnh: NLĐ

ĐBSCL phải đối mặt với tình trạng hạn hán ngày càng nặng nề. Ảnh: NLĐ

Trước đây, người dân ở nông thôn hoàn toàn uống nước sông tự nhiên, bây giờ tiến bộ hơn, như ở ĐBSCL có kênh nước sinh hoạt riêng, kênh nước sản xuất riêng. Nước ở nông thôn hiện nay do Bộ NN-PTNT phụ trách, người ta lấy nước từ kênh tưới đưa vào, trừ một số xã có trạm xử lý nước thì chủ yếu xử lý độ đục và xử lý các chất gây ra bệnh truyền nhiễm ngoài da, còn xử lý kim loại nặng thì chưa làm được, mà dân số ở nông thôn vẫn chiếm hơn 60% dân số Việt Nam.

Chữ an ninh nước có trọng lượng rất lớn, vì đó là một trong 3 trụ cột (gồm an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an ninh nước). Nói đến an ninh nước mà chỉ nghĩ đến việc bị phụ thuộc vào nguồn nước ở bên ngoài lãnh thổ thì chưa đủ.

An ninh nước ở đây có ý nghĩa sâu sắc, mà chính Việt Nam phải làm, đó là phải xây dựng được tiêu chuẩn về nước theo đúng chuẩn quốc tế. Chừng nào chúng ta chưa đủ năng lực để xây dựng tiêu chuẩn nước (theo chuẩn quốc tế) thì khi ấy an ninh nước còn chưa đảm bảo.

Trở lại với mối quan tâm của các đại biểu Quốc hội về an ninh nước, tôi xin nhấn mạnh, an ninh nước gồm cả lượng và chất, mà trước tiên muốn đảm bảo an ninh nước thì phải có nguồn nước sạch.

Vừa thừa vừa thiếu

Theo một đề tài khoa học do Bộ Thủy lợi (cũ) thực hiện cách đây mấy thập kỷ (và đến nay chưa có đề tài nào thay thế), nguồn nước bên ngoài vào Việt Nam khoảng 500 tỷ m3, chủ yếu từ sông Mekong, sông Hồng và một số sông nhánh; còn trong nước khoảng 300 tỷ m3.

Tôi kiến nghị cần có một đề tài khoa học đánh giá lại vấn đề này, trong đó 300 tỷ m3 nước trong nội địa thì không cần đánh giá lại nữa vì nó được tính từ lượng mưa. Còn 500 tỷ m3 nước từ bên ngoài vào thì cần xem lại vì hiện nay nhiều nước ở thượng nguồn đã tiến hành chuyển nước, đặc biệt là chuyển nước ra ngoài lưu vực.

Cách kiểm tra không có gì phức tạp. Ví dụ, vào mùa cạn nhất cần đánh giá còn bao nhiêu nước từ sông Mekong và sông Hồng chảy về, không kể sông nhỏ.

Ở đây, lượng nước quan trọng đối với Việt Nam không phải là 500 tỷ m3 nước chảy từ bên ngoài vào mà là 300 tỷ m3 trong nội địa và đến nay vẫn chưa dùng hết.

Thử tính toán: Lượng nước dùng nhiều nhất để tưới cho nông nghiệp, nước tưới vào cây lúa rồi bốc hơi luôn. Kể cả nông dân tưới kiểu chảy tràn suốt cả vụ thì một triệu hecta lúa mất chừng 20 tỷ m3 nước, cộng cả ĐBSH và ĐBSCL được hơn 4 triệu hecta trồng lúa, như vậy cùng lắm hết 100 tỷ m3.

Nước công nghiệp và nước dân sinh không đáng kể, chừng mấy chục tỷ m3, còn lại chảy ra sông, ra biển.

Như vậy, về lượng nước chúng ta không thiếu, nhưng vì sao vẫn phải kêu gọi trữ nước? Luật Thủy lợi 2017 quy định một trong các nguyên tắc của hoạt động thủy lợi là: "Chủ động tạo nguồn nước, tích trữ, điều hòa, chuyển, phân phối, cấp, tưới, tiêu, thoát nước giữa các mùa và vùng; bảo đảm yêu cầu sản xuất, sinh hoạt theo hệ thống công trình thủy lợi, lưu vực sông, vùng và toàn quốc".

Nếu nguồn nước thực sự sạch thì dẫu có thực hiện tất cả các hoạt động trên, 300 tỷ m3 nước vẫn đủ. Nhưng vì chất lượng nước không đảm bảo nên nước bị thiếu.

Một ví dụ đơn giản, nước sông Tô Lịch có nhiều nhưng không ai dám dùng vì gần 200 họng nước thải sinh hoạt đổ ra, trong đó có nước thải của bệnh viện, nước rửa xe có cả dầu mỡ đổ xuống... nên bùn ở sông Tô Lịch vào loại ô nhiễm nhất.

Bên cạnh đó, chúng ta còn bị thiếu nước do thiên tai . Lũ lụt, sạt lở đất đều làm mất nguồn nước, mà miền Trung vừa rồi là điển hình. Cho nên, thiếu nước cũng có lý do là do chất lượng nước không giữ được, thiên tai xảy ra không phòng chống tốt thì phải chịu. Còn về lượng hóa, với 300 tỷ m3 nước trong nội địa, chúng ta có thừa.

Với ĐBSCL, hạn mặn là thiên tai. Khi hạn hán xảy ra thì xâm nhập mặn càng nặng nề, càng bị thiếu nước. Thế nhưng, vì ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển nên công bằng mà nói, người dân vùng ven biển luôn luôn bị thiếu nước ngọt.

Trong một lần đi công tác đến huyện Thạnh Phú, Bến Tre, một vị lãnh đạo có hỏi tôi: Tại sao ông không hiểu được người dân nơi đây nói gì? Tôi trả lời rằng, đó là tại nước. Huyện Thạnh Phú khi ấy quanh năm bị xâm nhập mặn, người dân phải ăn nước nhiễm mặn.

Bởi đứa trẻ từ lúc lọt lòng đến khi lớn lên đều ăn uống bằng nước nhiễm mặn nên giọng bị thay đổi. Nói ra điều này không phải tôi suy diễn mà Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) cũng đã có khuyến cáo.

Nếu ĐBSCL thiếu nguồn nước thì miền Bắc lại thiếu về chất. Phải làm rõ điều này để cho chính sách về nước phù hợp với từng vùng.

Chằng hạn, ĐBSCL dứt khoát phải chuyển nước ngọt, còn miền Bắc không cần chuyển nước mà phải bảo vệ được môi trường nước. Điểm này, cơ quan quản lý nhà nước cũng đã nhận thức rõ. Hiện nay, ở Đồng bằng Bắc Bộ, các trạm cấp nước trên sông, hồ đã và đang tiến hành xử lý nước, nhưng với ĐBSCL vẫn chưa có một chiến lược nào nên buộc người dân phải khai thác nước ngầm, và khai thác nước ngầm quá mức thì gây nên tình trạng sụt lún.

Rõ ràng, thực trạng trên đòi hỏi phải có giải pháp đối ứng, không phải chỉ đấu tranh với thượng nguồn để họ xả nước. Dù thượng nguồn có xả nhiều mà nước ô nhiễm cũng không dùng được, mà càng phát triển thì ô nhiễm càng tăng. Chúng ta phải xử lý ô nhiễm mới tăng được nguồn nước.

Một tác động khác đến an ninh nước của Việt Nam đó là phát triển dân số quá nhanh. Tăng dân số khiến ô nhiễm tăng, ô nhiễm tăng khiến lượng nước sạch giảm.

Cho nên, để đảm bảo an ninh nước, phải giải quyết cả mấy mặt: Thứ nhất, bảo vệ nguồn; Thứ hai, bảo vệ môi trường thông qua việc xả thải; Thứ ba, vấn đề phát triển dân số cần theo từng bước; Thứ tư, phải khắc phục, phòng chống thiên tai được tốt.

Để an ninh nước thực sự là một trụ cột, sánh ngang với an ninh lương thực, an ninh năng lượng thì phải nâng tầm nó lên, bắt đầu từ chiến lược, cho đến pháp luật, thể chế, tổ chức bộ máy và các biện pháp hành động.

Trước mắt là phải bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về an ninh nước, sau đó mới đi vào thể chế, bộ máy. Kkhông phải cứ có nhiệm vụ quan trọng là lại sinh ra bộ máy, mà hiện nay đã có sự lồng ghép, nhất là thời đại công nghệ không cần nhiều người, chỉ cần tinh là có thể giải quyết được.

Về tổ chức, hiện Bộ Xây dựng phụ trách nước đô thị, Bộ NN-PTNT phụ trách nước nông thôn, ngoài ra còn có Bộ Y tế. Các đơn vị phụ trách này có thể giữ nguyên, nhưng những vị trí, bộ phận làm việc phải được nâng cấp, cần có những chuyên gia thực sự.

Tiếp đó, cần đầu tư kinh phí xử lý nước. Phải đầu tư xuống tận các trạm của địa phương, khi đó mới tác động được đến ý thức của người dân.

Hiện nay, nước chỉ hợp vệ sinh nên mới rẻ, còn khi đảm bảo đủ tiêu chuẩn quốc tế thì giá sẽ đắt, người dân sẽ có ý thức hơn. Phải có lộ trình nâng giá nước lên để tránh gây sốc. Muốn vậy, chỉ tính chi phí trực tiếp, chưa vội tính khấu hao vào giá nước, hoặc nếu có tính cũng chỉ được tính ở mức thấp. Để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư khi chưa tính khấu hao thì chính quyền tỉnh, thành phố cần có phương án bù đắp.

Thành Luân (ghi)

Nguồn Đất Việt: http://baodatviet.vn/khoa-hoc/cong-nghe/gs-vu-trong-hong-nuoc-cua-viet-nam-chua-du-tieu-chuan-3422588/