Giảm chi phí, kiểm soát lạm phát

Hai kịch bản tăng trưởng (3,8% và 2,2%), cùng khuyến nghị của các tác giả Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý 2 và 6 tháng đầu năm 2020, vừa được Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) công bố ngày 21-7, đều cho rằng Việt Nam không thể theo đuổi các chính sách vĩ mô theo cách tương tự ở một số nước khác.

“Do nguồn lực tài khóa hạn hẹp, cộng với việc chính sách tiền tệ bị ràng buộc với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, trong trường hợp của Việt Nam, việc chủ động cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn/giảm thuế đối với doanh nghiệp (DN) có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp”, báo cáo nêu rõ.

TS Nguyễn Đức Thành, Cố vấn trưởng VEPR nhấn mạnh, dù có chậm trễ, Việt Nam nên từng bước xây dựng “đệm tài khóa” để phòng chống những cú sốc kiểu Covid-19 hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này trong những năm tới. Bên cạnh đó, các chính sách an sinh xã hội như chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc, trợ cấp cho người nghèo, người bị mất kế sinh nhai nên được ưu tiên hàng đầu và cần được triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.

Song theo VEPR, đây lại chính là điều “đáng lo ngại nhất” do khả năng giải ngân các gói cứu trợ xã hội chậm và mạng lưới thực thi chưa thực sự hiệu quả. Có lẽ vì thế mà một khuyến nghị quan trọng từ các chuyên gia là “trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch”. Việc cấp bách lúc này là kiểm soát giá lương thực thực phẩm để đảm bảo mục tiêu lạm phát bình quân năm 2020 dưới 4%.

Về các chính sách hỗ trợ DN, nhóm nghiên cứu cho rằng: việc khoanh/ngưng hoặc miễn giảm các chi phí tài chính như lãi vay và tiền thuê đất nên được áp dụng đối với nhóm DN phải dừng hoạt động; các chính sách hoãn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), giảm tiền thuê đất, giảm lãi vay và khoanh nợ, giãn thu thuế giá trị gia tăng, nên được thực hiện với các DN chịu ảnh hưởng, song phải có các tiêu chí rõ ràng về các mức độ hỗ trợ để tránh dàn trải.

Đối với nhóm DN ít hoặc không bị ảnh hưởng, hoặc có hướng chuyển đổi hiệu quả, thì nên khuyến khích tín dụng, tạo điều kiện về môi trường thể chế và chính sách ngành, bởi họ là nhóm gánh đỡ nền kinh tế trong thời điểm này. Về gói hỗ trợ tài khóa của Bộ Tài chính, cũng như gói hỗ trợ tín dụng của các ngân hàng thương mại, đối tượng của các chính sách này nên là những ngành sản xuất, những DN còn có thể hoạt động và hoạt động tốt, vì đây là đối tượng có thể tạo ra dòng tiền.

Có thể thấy, một giải pháp phối hợp chính sách lúc này là thúc đẩy các dự án xây dựng hạ tầng liên quan đến các khu công nghiệp, thông qua chính sách tín dụng hướng tới lĩnh vực này. Việc chuẩn bị một hạ tầng công nghiệp như vậy có thể giúp Việt Nam đón nhận thêm các nhà đầu tư mới, nhất là nếu dòng dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc mạnh lên. Đã có các chỉ dấu như thế thông qua những diễn biến của môi trường địa chính trị toàn cầu. Việc xây dựng các khu công nghiệp có tác dụng kích thích tổng cầu trong ngắn hạn, còn trong dài hạn, các khu công nghiệp đi vào hoạt động lại củng cố tổng cung. Đa dạng hóa thị trường xuất/nhập khẩu cũng cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào một số đối tác kinh tế lớn.

Tất nhiên, kinh tế Việt Nam không nằm ngoài những khó khăn chung mà đại dịch Covid-19 gây ra cho kinh tế toàn cầu. Nhờ khống chế dịch sớm, Việt Nam có được một số lợi thế là hoạt động kinh tế trong nước phục hồi sớm hơn một số nền kinh tế khác. Thế nhưng, trong giao thương quốc tế, khi mà nhiều quốc gia vẫn đang vất vả chống dịch và chưa thể mở cửa trở lại, chúng ta phải chủ động đối phó với nhiều khó khăn rất lớn, ít nhất là trong mùa thu và mùa đông trước mắt, mà cũng có thể là cả năm sau.

ANH THƯ

Nguồn SGGP: http://sggp.org.vn/giam-chi-phi-kiem-soat-lam-phat-674583.html