Giải pháp nào cho nguy cơ thiếu điện vào năm 2020?

Công suất nguồn điện đạt 47.750 MW, với sản lượng điện thương phẩm là 192,1 tỉ kWh. Làm thế nào để 12 năm tới, Việt Nam nâng công suất lên 129.500 MW và sản lượng hơn 570 tỷ kWh.

Hội thảo "Phát triển năng lượng bền vững và bảo vệ môi trường tại Việt Nam". Ảnh: Đức Dũng/BNEWS/TTXVNNguy cơ thiếu điện sẽ xảy ra từ những năm 2020 là ý kiến trên được đưa ra tại hội thảo "Phát triển năng lượng bền vững và bảo vệ môi trường tại Việt Nam" do Hiệp hội Năng lượng tổ chức sáng 29/11, tại Hà Nội.

Theo Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh, để đáp ứng nhu cầu điện các năm tới, cả nước cần tới 60.000 MW vào năm 2020, năm 2025 cần 96.500 MW và đến năm 2030 là 129.500 MW. Như vậy, tổng công suất nguồn điện cần đưa vào vận hành từ nay đến năm 2030 bình quân tăng thêm khoảng 6.000 - 7.000 MW/năm.

Chia sẻ tại hội thảo, ông Trần Việt Anh, Trưởng ban Chiến lược – Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, hiện công suất nguồn điện cả nước mới chỉ đạt 47.750 MW, với sản lượng điện thương phẩm là 192,1 tỉ kWh. Vậy làm thế nào để trong thời gian 12 năm tới, Việt Nam có thể nâng công suất lên 129.500 MW và sản lượng hơn 570 tỷ kWh là thách thức lớn. Trong khi đó, hiện nhiều dự án trong Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh đang chậm tiến độ dẫn tới có khả năng từ những năm 2020 đến năm 2025 việc thiếu điện sẽ xảy ra.

Ông Trần Việt Anh cho biết, thực tế hiện nay chỉ có 7 dự án nhiệt điện than, với công suất 7.860 MW đã được khởi công và triển khai xây dựng. Như vậy, còn khoảng 18.000 MW trên tổng số 26.000 MW các dự án nhiệt điện than dự kiến vận hành trong thời gian tới, nhưng đến nay chưa khởi công xây dựng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến cung ứng điện các năm tiếp theo.

Ở lĩnh vực dầu khí, theo ông Nguyễn Vũ Trường Sơn, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), theo cân đối nhu cầu đất nước sau năm 2020 sẽ thiếu khoảng 10 triệu tấn khí hóa lỏng (LNG). Do đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng để nhập khẩu LNG ngoài việc khai thác khí ở các mỏ hiện nay là bài toán cần tính đến.

Trong khi đó, về khai thác dầu khí liên quan đến tương lai dài hạn, dài hơi cho PVN cũng chưa được xác định do hiện PVN vẫn chỉ khai thác những mỏ cũ, trong khi việc khai thác trữ lượng mỏ bổ sung với 25 triệu tấn vẫn "chưa có câu trả lời" nên việc bù trừ sản lượng khai thác hàng năm càng hạn hẹp.

Đại diện của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng cho biết, khả năng sản xuất than thương phẩm của ngành này đến năm 2035 tăng không nhiều, đạt từ 42 – 50 triệu tấn/năm. Trong khi đó, nhu cầu than của các hộ ngày càng cao, vượt xa khả năng cung cấp của ngành than, đặc biệt là nhiệt điện, lên tới 128 triệu tấn/năm. Theo tính toán, việc nhập khẩu than là tất yếu với nhu cầu 67 triệu tấn (2025); 98 triệu tấn vào 2030.

Dự báo là vậy, song thực tế, việc khai thác than trong nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nếu không có các giải pháp đồng bộ tháo gỡ thì khó đạt được mức sản lượng đề ra. Bởi thực tế hiện ngành này mới chỉ sản xuất đạt khoảng 38 triệu tấn, đòi hỏi sản lượng nhập khẩu tăng lên đáng kể.

Trong khi đó, đại diện TKV cho rằng chính sách sản xuất, tiêu thụ than hiện chưa rõ ràng, nhất quán. Cụ thể, như chính sách thuế phí đối với than không ngừng tăng và cao hơn các nước trong khu vực. Hay như các khoản thuế, phí khác cũng không ngừng tăng: phí môi trường, phí cấp phép thăm giò, khai thác, cải tạo môi trường,... Tổng các loại thuế phí chiếm tới 16% giá thành.

Bên cạnh đó, công nghệ khai thác và chế biến còn ở mức thấp, yêu cầu vốn đầu tư lớn cho thăm dò khai thác, sàng tuyển chế biến và xây dựng cơ sở hạ tầng.

TKV cho biết, theo quy hoạch giai đoạn 2016-2030, nhu cầu đầu tư cần 269.000 tỷ đồng (tương đương 12,3 tỷ USD). Như vậy bình quân mỗi năm cần 18.000 tỷ đồng nhu cầu đầu tư cho phát triển sản xuất than trong nước, chưa bao gồm đầu tư ở nước ngoài để nhập khẩu than về Việt Nam cũng như cơ sở hạ tầng và logistic cho nhập khẩu than.

Thực tế cho thấy, nguồn năng lượng sơ cấp trong nước cạn kiệt không đảm bảo sản xuất điện, nguồn than và khí tới đây cũng phải nhập khẩu, trong khi vốn đầu tư mỗi năm lên đến hàng tỷ USD nhưng việc thu xếp khó khăn.

Theo ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, để đảm bảo an ninh năng lượng đất nước cần rà soát lại các dự án điện, khí, than, nêu rõ dự án nào chậm tiến độ để khắc phục ngay, dự án nào chưa khởi động thì triển khai, dự án nào đang nằm trên giấy. Từ đó, cần phải giao nhiệm vụ, kế hoạch, giải pháp, thực hiện và tháo gỡ khó khăn.

Về cung ứng than cho điện, ông Ngãi cho rằng, đầu tiên phải cân đối được tỷ lệ nguồn điện để từ đó có các giải pháp phù hợp. Riêng với cung ứng than, phải có chiến lược cho việc nhập khẩu than, có vốn lớn, cơ sở hạ tầng...

Với vấn đề vốn, ông Ngãi kiến nghị có thể bảo lãnh vay vốn, để đưa các dự án đi vào triển khai xây dựng và vận hành. Bởi các dự án này lợi nhuận thu lại không cao, giá bán điện thấp, nên khó thu hút được đầu tư nước ngoài. Vì thế, cần có các giải pháp đặc biệt .

Ngoài ra, Chính phủ, Bộ Công Thương cần quyết liệt kiểm tra từng dự án, chưa triển khai, đã triển khai để xem vướng mắc ở đâu, vì sao để có thể giải quyết triệt./.

Đức Dũng/BNEWS/TTXVN

Nguồn Bnews: http://bnews.vn/giai-phap-nao-cho-nguy-co-thie-u-die-n-vao-nam-2020-/104126.html