Giải pháp nào cho doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ tiếp cận nguồn vốn?

Doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do: Năng lực tài chính còn hạn chế, thiếu vốn đối ứng; dự án, phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi, sản xuất tự phát, khả năng hoàn vốn thấp...

Những năm gần đây, tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế được duy trì ở mức khá cao (2015- 2017 đạt 18-19%, 2018 đạt gần 14%, 3 tháng đầu năm 2019 tiếp tục tăng 3,19%). Trong đó, tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng 21,41%; tín dụng công nghiệp và xây dựng tăng 9,91%; tín dụng thương mại và dịch vụ tăng 16,57%; tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) tăng 15,57%; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 14,58% . Tăng trưởng tín dụng đã góp phần hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt năm 2018 tăng trưởng kinh tế đạt 7,08% - cao nhất trong 11 năm trở lại đây.

Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng trong doanh nghiệp

Xuất phát từ những khó khăn chung của kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu, thị trường đầu ra thiếu ổn định trong khi các vấn đề biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của doanh nghiệp, đã hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của các tài chính tín dụng (TCTD).

Bên cạnh đó, công tác cải cách thủ tục hành chính và các hoạt động hỗ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh tại một số địa phương chưa đạt được hiệu quả cao, phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp; công tác xử lý tài sản đảm bảo tiền vay khi khách hàng không trả được nợ vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn do trình tự, thủ tục liên quan đến khởi kiện, thi hành án để xử lý tài sản đảm bảo còn bất cập dẫn đến tâm lý thận trọng hơn trong cho vay của các TCTD.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận nguồn vốn. Ảnh Internet

Doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận nguồn vốn. Ảnh Internet

Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do: Năng lực tài chính còn hạn chế, thiếu vốn đối ứng; dự án, phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi, sản xuất tự phát, khả năng hoàn vốn thấp, công tác hạch toán kế toán thiếu chuyên nghiệp, thông tin tài chính thiếu minh bạch, trong khi đó lại thiếu tài sản đảm bảo, hạn chế khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn cho DNNVV thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hỗ trợ vốn của Quỹ phát triển DNNVV thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả.

Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Để nâng cao hiệu quả của các chương trình tín dụng đặc thù nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn và đáp ứng nhu cầu vốn vay cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngành ngân hàng sẽ tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát ở mức độ hợp lý, bảo đảm lãi suất và tỉ giá hối đoái ổn định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp; Tập trung thực hiện và triển khai đồng bộ các giải pháp tại Đề án tái cơ cấu hệ thống TCTD và xử lý nợ xấu, góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế; Rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế được mở rộng vay vốn theo năng lực kinh doanh và thực lực tài chính, đa dạng các kênh, hình thức tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp.

Hai là, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo Nghị quyết 35, 19/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh; Đồng thời, thực hiện các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, chú trọng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; tăng cường kiểm soát rủi ro đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng hành lang pháp lý phát triển các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng mới nhằm tạo thêm kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp phục vụ sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Bốn là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố triển khai chương trình kết nối Ngân hàng, Doanh nghiệp để cùng với chính quyền các địa phương trực tiếp tháo gỡ đồng bộ những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.

Năm là, chỉ đạo các TCTD: đẩy mạnh triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN; tiếp tục rà soát, cải tiến quy trình thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn, góp phần hạn chế tín dụng đen; cân đối khả năng tài chính, thường xuyên tiết giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động để có điều kiện giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý, góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cũng như các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, các sản phẩm phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá nhằm giúp doanh nghiệp chủ động về vốn, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro.

Sáu là, tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong: xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ; hoàn thiện và triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV được quy định trong Luật hỗ trợ DNNVV và các văn bản hướng dẫn Luật, đặc biệt là chính sách về bảo lãnh tín dụng cho DNNVV vay vốn TCTD, hỗ trợ vốn thông qua Quỹ phát triển DNNVV.

Thảo Nguyên

Nguồn VietQ: http://vietq.vn/giai-phap-nao-cho-doanh-nghiep-vua-va-nho-de-tiep-can-nguon-von-d158340.html