Giá điện tăng: doanh nghiệp sản xuất điện có hưởng lợi?

Trong ngắn hạn, việc tăng giá điện bán lẻ nhiều khả năng chưa mang đến nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp sản xuất điện.

 Giá điện dự kiến sẽ tăng 8,36% từ cuối tháng 3-2019. Ảnh: Thành Hoa

Giá điện dự kiến sẽ tăng 8,36% từ cuối tháng 3-2019. Ảnh: Thành Hoa

Giá điện dự kiến sẽ tăng 8,36% từ cuối tháng 3-2019. Theo đó, giá bán điện bình quân hiện hành sẽ tăng từ 1.720 đồng/kWh lên 1.864 đồng/kWh. Câu hỏi đặt ra là liệu các doanh nghiệp ngành điện có được hưởng lợi từ việc tăng giá điện bán lẻ không?

Ít hưởng lợi ngay trong ngắn hạn

Trên thực tế, giá bán điện của các công ty ngành điện đã được quy định trong hợp đồng với tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), cố định theo thời gian 3-5 năm nên khi giá điện thành phẩm tăng chưa hẳn sẽ có tác động tích cực đối với các doanh nghiệp sản xuất điện. Trong khi đó, khó khăn đối với các doanh nghiệp ngành điện hiện lại đến từ nhiều phía.

Đối với các doanh nghiệp thủy điện, biến động giá điện đầu ra không quan trọng bằng tình hình thời tiết và việc khô hạn kéo dài. Năm 2018 là một ví dụ khi tình trạng này đã tác động tiêu cực tới kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần (CTCP) Thủy điện Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH) khi lợi nhuận quí 4-2018 sụt giảm 46,5% so với cùng kỳ năm 2017.

Đối với các doanh nghiệp nhiệt điện, giá nguyên liệu đầu vào tăng lại đang là bài toán nan giải. Ðầu năm 2019, khi nguồn cung than cho các nhà máy điện gặp căng thẳng do một số nhà máy than phía Bắc thiếu than cho sản xuất, tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Ðông Bắc đã đề xuất tăng giá bán than cho ngành điện.

Ðề xuất này được Chính phủ chấp thuận và được áp dụng từ ngày 5-1-2019. Theo đó, sản phẩm than trong nước và than trộn của TKV đã tăng giá từ 11-18,83%, các sản phẩm của Tổng công ty Ðông Bắc cũng tăng giá từ 11-15%. Theo tính toán của EVN, năm 2019, các nhà máy điện sẽ phải chi thêm khoảng 1.498 tỉ đồng để mua than. Trước đó, trong năm 2018, giá than cũng được điều chỉnh tăng 5% khiến ngành điện tăng chi phí hơn 4.000 tỉ đồng.

Còn với các nhà máy điện khí, ngoài việc giá khí đầu vào tăng thì đáng ngại hơn là tình trạng thiếu khí cho sản xuất. Thiếu nguyên liệu đầu vào dẫn tới sản lượng hợp đồng của các doanh nghiệp thấp hơn làm giảm lợi nhuận.

Triển vọng tích cực trong dài hạn

Như vậy, trong ngắn hạn, việc tăng giá điện bán lẻ nhiều khả năng chưa mang đến nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp sản xuất điện. Tuy nhiên, trong dài hạn hơn, việc giá điện tiếp tục được điều chỉnh tăng theo lộ trình và việc vận hành chính thức thị trường bán buôn điện cạnh tranh (VWEM) kể từ đầu năm 2019 sẽ mang đến thuận lợi cho các doanh nghiệp ngành điện.

Trong thời gian qua, năm công ty bán lẻ điện (bên mua, bao gồm Tổng công ty Điện lực miền Bắc, Tổng công ty Điện lực miền Nam, Tổng công ty Điện lực miền Trung, Tổng công ty Điện lực Hà Nội và Tổng công ty Điện lực TPHCM - đều là công ty con của EVN) và các nhà sản xuất điện (bên bán) đã tham gia vào thị trường mô phỏng, từ đó lấy ra các thông số thị trường như cung - cầu, nguồn huy động... để xác định giá điện huy động. Theo đó, các nhà máy phát điện có thể điều chỉnh tăng giá bán để phản ánh đúng hơn chi phí sản xuất và cung - cầu trên thị trường điện.

Ngoài triển vọng được tăng giá bán cho EVN trong tương lai, một số nhà máy sản xuất điện cũng đang có những yếu tố hỗ trợ ngắn hạn cho triển vọng kết quả kinh doanh trong năm nay.

Đơn cử, tại CTCP Nhiệt điện Phả Lại (mã PPC), hiện các nhà máy của công ty này đã hết khấu hao từ 6-7 năm nay, nên những áp lực từ biến động chi phí được tiết giảm. CTCP Nhiệt điện Nhơn Trạch 2 (mã NT2) nhiều khả năng cũng sẽ được hưởng lợi khi EVN huy động nguồn điện từ các công ty nhiệt điện nhiều hơn và giá bán trên thị trường cạnh tranh có thể cao hơn do công suất lắp đặt tăng trưởng chậm hơn so với nhu cầu tiêu thụ điện. Theo dự báo của Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), năm 2019, NT2 ước đạt lợi nhuận sau thuế 7.462 tỉ đồng, tương đương EPS (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu) ở mức 2.511 đồng/cổ phiếu.

Tổng công ty Điện lực dầu khí Việt Nam (mã POW) cũng là một trường hợp đáng chú ý khi đây là một trong ba doanh nghiệp phát điện lớn nhất Việt Nam, có tiềm năng tăng trưởng cả trong ngắn hạn nhờ hết khấu hao ở Nhà máy Cà Mau và dài hạn nhờ đầu tư cũng như tiếp nhận thêm các nhà máy phát điện mới. Năm 2019, lợi nhuận của POW dự kiến tăng trên 50% và thu hút mạnh hơn dòng vốn từ các quỹ đầu tư, các quỹ ETF.

Theo thống kê, P/E (giá cổ phiếu/lợi nhuận của mỗi cổ phiếu) trung bình của các cổ phiếu thủy điện hiện là 9,2 lần, thấp hơn so với P/E của toàn thị trường chứng khoán là 15,9 lần, trong khi P/B (giá cổ phiếu/giá trị sổ sách) trung bình của cổ phiếu thủy điện là 1,4 lần so với P/B trung bình của VN-Index là 2,5 lần. Ngoài ra, tỷ suất cổ tức trung bình của các cổ phiếu thủy điện là 8,3%, cao hơn đáng kể so với tỷ suất cổ tức trung bình của VN-Index là 2,1%.

Với doanh nghiệp thủy điện, tuy khả năng mở rộng công suất phát điện hạn chế, nhưng lại có sự ổn định trong hoạt động kinh doanh, dòng tiền tốt và tỷ suất cổ tức cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thủy điện sẽ có cơ hội cải thiện biên lợi nhuận trong các năm tới nhờ giá bán điện tăng và chi phí khấu hao nhà máy giảm dần.

Linh Trang

Nguồn Saigon Times: https://www.thesaigontimes.vn/td/286452/gia-dien-tang-doanh-nghiep-san-xuat-dien-co-huong-loi.html