Duy trì ổn định chính sách tiền tệ

Năm 2018, theo các chuyên gia kinh tế, CSTT đứng trước nhiều áp lực lớn. Thứ nhất, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và hàng loạt các NHT.Ư áp dụng các chính sách thắt chặt tiền tệ và kiểm soát dòng di chuyển vốn chặt chẽ hơn. Lãi suất của các NHT.Ư bắt đầu được điều chỉnh tăng và điều này đã tác động mạnh mẽ tới tỷ giá hối đoái (TGHĐ) của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước mới nổi. Thứ hai, xu thế bảo hộ mậu dịch xuất hiện, đe dọa nghiêm trọng các hiệp định thương mại tự do đa phương và xu thế toàn cầu hóa. Chiến tranh thương mại (CTTM) bùng nổ khiến cho thương mại và đầu tư toàn cầu trở nên bấp bênh. Điều này tạo thêm áp lực đối với đồng tiền của các thị trường (TT) mới nổi. Trong mười tháng qua, nhiều đồng tiền ở Đông - Nam Á mất giá từ 7% đến 11% so đồng USD. Thứ ba, CTTM cũng có nguy cơ dẫn đến cuộc chiến tranh tiền tệ khiến cho nhiều nhà đầu tư (NĐT) quốc tế tỏ ra thận trọng trong việc đầu tư vào các nền kinh tế mới nổi. Thứ tư, trong nước, CSTT cũng chịu sức ép khá lớn từ biến động giá thực phẩm, giá một số loại dịch vụ công như: y tế, giáo dục, điện, nước… đều có xu hướng tăng dần. Cả hai yếu tố bên trong, bên ngoài tạo ra áp lực khá rõ ràng lên chỉ số lạm phát và TGHĐ, chỉ số chứng khoán.

Theo TS Lê Xuân Nghĩa, những yếu tố đó đều tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam dưới ba khía cạnh. Thứ nhất, giá cả hàng hóa, nhập khẩu như: xăng dầu, lương thực thực phẩm… có xu hướng tăng. Thứ hai, đầu tư gián tiếp có xu hướng giảm khi xu thế bán ròng của các NĐT nước ngoài khá phổ biến mặc dù chưa có hiện tượng rút vốn ồ ạt ra khỏi TT Việt Nam. Thứ ba, TGHĐ đứng trước sức ép lớn, nhiều chiều. Nhất là TGHĐ giữa đồng USD và nhân dân tệ (CNY) là hai đồng tiền mà Việt Nam có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn. Tuy nhiên, việc điều hành thận trọng và linh hoạt của Chính phủ cũng như việc thực thi CSTT theo nguyên tắc lạm phát mục tiêu, lấy ổn định làm nền tảng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đem lại những kết quả rất tích cực. Chỉ số lạm phát dự kiến đến cuối năm vẫn duy trì như mục tiêu đề ra, lãi suất tiếp tục được ổn định. Thanh khoản của hệ thống NH khá vững chắc. Thậm chí, NHNN tiếp tục duy trì số dư tín phiếu NHNN rất lớn từ đầu năm.

Mặt khác, từ đầu năm 2018 đến nay, NHNN liên tục thực hiện chính sách TGHĐ thả nổi có điều kiện, đồng thời phối hợp đồng bộ các công cụ CSTT để điều tiết lượng tiền cung ứng. Điều đó giữ ổn định TGHĐ, điều mà TT và các NĐT trong nước và quốc tế rất quan tâm. Hơn thế, NHNN vẫn tiếp tục duy trì dự trữ ngoại hối bảo đảm 14 tuần nhập khẩu trong một thời gian dài. Điều này có tác dụng tăng cường khả năng can thiệp của NHNN vào TT ngoại hối nhưng đồng thời cũng là một khoản bảo lãnh quốc tế tin cậy cho đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam của người nước ngoài. CSTT góp phần quan trọng ổn định KTVM và TTKT, tạo ra vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này đã được các tổ chức xếp hạng quốc tế đánh giá rất cao và ghi nhận thông qua việc Việt Nam đã cải thiện được đáng kể chỉ số xếp hạng, đặc biệt là về TTKT, ổn định KTVM và tái cơ cấu hệ thống NH.

Thị trường tài chính (TTTC) quốc tế và hệ thống tài chính quốc tế trong thời gian vừa qua đã phát triển mạnh dựa trên nền tảng toàn cầu hóa, đặc biệt thương mại tự do và tự do hóa đầu tư tài chính. Tuy nhiên, nền tảng này của TTTC đang bị lung lay do tác động của Brexit, xu thế bảo hộ chống lại toàn cầu hóa. Đặc biệt là Mỹ đã từ bỏ vai trò dẫn dắt toàn cầu hóa, dẫn dắt thương mại và đầu tư tự do, đồng thời từ bỏ vai trò người giám sát TTTC toàn cầu mà tổng thống tiền nhiệm của Mỹ đã gây dựng. Đây có thể coi là nguy cơ lớn nhất về tính ổn định bền vững của TTTC toàn cầu. Nguy cơ này đang được gia tăng bởi cuộc CTTM Mỹ - Trung. Và nếu nguy cơ này dẫn đến cuộc CTTM toàn cầu thì TTTC toàn cầu, trong đó có Việt Nam, có thể gặp bất ổn lớn.

Trước những bất định của kinh tế toàn cầu, ông Lê Xuân Nghĩa cho rằng, chính sách KTVM, đặc biệt là chính sách tài khóa, CSTT cần phải tính đến những yếu tố này và cần phải có những đệm giảm sốc để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực trong trường hợp TTTC có biến động. Cụ thể, NHNN xem xét cách thức vận hành của các công cụ CSTT phải bảo đảm linh hoạt ngắn hạn và tính ổn định dài hạn. Bên cạnh đó, NHNN cần phải có biện pháp khôn khéo và hiệu quả trong việc kiểm soát tín dụng đối với BĐS. Trên thực tế, TT bất động sản hiện nay có quy mô lớn hơn nhiều lần so cách đây 10 năm. TT bất động sản chưa có dấu hiệu “bong bóng” nhưng đây là TT đang sử dụng vốn kém hiệu quả, đặc biệt là các dự án (DA) “đắp chiếu” kéo dài. Vì vậy, việc kiểm soát tín dụng với bất động sản cần có lựa chọn, tăng cường nguồn vốn cho các DA hoàn thành nhanh và phát huy hiệu quả; hạn chế cấp vốn đối với các DA “đắp chiếu”.

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/baothoinay/baothoinay-kinhte/item/38066102-duy-tri-on-dinh-chinh-sach-tien-te.html