Đóng góp lớn từ đội ngũ khoa học công nghệ ngành giáo dục

Năm 2018, Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) của Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu theo báo cáo của WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) đứng thứ 45, liên tục thăng hạng trong những năm gần đây (xếp thứ 71 năm 2014; 59 năm 2016; 47 năm 2017). Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được từ trước tới nay...

Tăng trưởng vượt bậc về đổi mới sáng tạo quốc gia

Có thể nói đây là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các hoạt động ĐMST quốc gia, trong đó, đóng góp không nhỏ là sự tăng cường nghiên cứu khoa học (NCKH) và phát triển nhân lực khoa học công nghệ (KHCN) trong ngành giáo dục.

Chỉ số ĐMST toàn cầu (Global Innnovation Index, hay còn gọi là GII) là bộ công cụ xếp hạng năng lực ĐMST các quốc gia và nền kinh tế với việc tính toán 4 chỉ số chính: chỉ số đầu vào ĐMST, chỉ số đầu ra ĐMST, tỉ lệ ĐMST hiệu quả và điểm GII tổng thể.

Chỉ số ĐMST toàn cầu – GII được đánh giá là toàn diện và chính xác hơn các thước đo truyền thống (trước đây đo bằng các chỉ số: chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, số lượng các bài báo và nghiên cứu được công bố hay số bằng sáng chế được đăng ký).

Theo báo cáo của WIPO, nếu so sánh với thứ hạng GDP thì xếp hạng ĐMST quốc gia của Việt Nam có sự vượt trội hơn hẳn. Với 37,94/100 điểm, Việt Nam đứng thứ 45/126 quốc gia về chỉ số ĐMSt, tỷ lệ ĐMST hiệu quả đạt 0,8 (xếp hạng 16). Riêng trong nhóm thu nhập trung bình thấp, chỉ số ĐMST của Việt Nam xếp thứ 2, trên Moldova, Ấn Độ và Mông Cổ.

Đặc biệt Việt Nam xếp thứ 2 trong nhóm 30 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được đánh giá. Báo cáo GII 2018 cũng cho thấy Việt Nam nằm trong top 5 của nhóm thu nhập trung bình thấp trong tất cả các chỉ số chính về ĐMST.

Ông Edward Harris, bộ phận Tin tức và truyền thông, WIPO nhận xét: “Trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, 4 quốc gia gồm: Ukraina, Cộng hòa Moldova và Việt Nam thể hiện xuất sắc hơn so với dự kiến khi xem xét dựa trên các chỉ số đầu vào. Chẳng hạn Việt Nam nổi bật trong tăng trưởng năng suất lao động và là quốc gia dẫn đầu trong nhóm về xuất khẩu công nghệ cao”, Việt Nam cũng có lợi thế về xuất khẩu phát triển ứng dụng di động.

Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng liên tục những năm gần đây có đóng góp lớn từ đội ngũ khoa học công nghệ ngành giáo dục. Ảnh P.T

Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng liên tục những năm gần đây có đóng góp lớn từ đội ngũ khoa học công nghệ ngành giáo dục. Ảnh P.T

Tăng cường NCKH và phát triển nhân lực KHCN

Báo cáo GII 2018 chỉ ra một yếu tố quan trọng khiến Việt Nam đạt được thứ hạng cao là sự đầu tư cho giáo dục trong những năm gần đây. Cụ thể, Việt Nam đã đứng đầu 2 năm liền (2017 và 2018) về chi tiêu cho giáo dục trong số các quốc gia ASEAN. Đây rõ ràng là đóng góp lớn của ngành giáo dục đối với tăng trưởng về ĐMST quốc gia khi chi tiêu cho giáo dục tính theo GDP là 5,7% - xếp thứ 29/126.

Một thông tin đáng mừng khác, đó là Việt Nam xếp thứ 18/126 quốc gia về giáo dục cũng trong Báo cáo GII 2018. Đây có thể coi là thành công bước đầu rất đáng kể của toàn ngành giáo dục sau khi Nghị quyết 29 được ban hành và triển khai rộng rãi.

Sự đầu tư cho giáo dục không chỉ thể hiện ở việc đẩy mạnh chi tiêu chung, mà đặc biệt thể hiện qua việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo nguồn nhân lực gắn với nghiên cứu khoa học (NCKH). Ngay từ 2016, chủ trương này được Bộ GD&ĐT quan tâm chỉ đạo triển khai ở tất cả các trường ĐH, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục ĐH của Nghị quyết 29-NQ/TW.

Sau hơn 4 năm thực hiện yêu cầu “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục” của Nghị quyết 29, số lượng và chất lượng các nhà khoa học đều tăng. Điều này thể hiện qua số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ tăng dần qua các năm. Cụ thể, từ 2012 tới 2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 14,4% lên 21,8%, giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 47% lên 59,4% qua các năm. Đồng thời giảng viên có trình độ khác giảm dần cả về con số tuyệt đối lẫn tỉ lệ % (giảm từ 38,6% xuống còn 18,6%).

Ngành giáo dục đang sở hữu một lực lượng dồi dào các nhà khoa học trình độ cao hơn hẳn so với các ngành khác trong cả nước (chiếm hơn 50%) với nguồn nhân lực chất lượng cao (PGS, GS, TS). Đặc biệt, hơn hẳn nguồn nhân lực chất lượng cao tại các viện nghiên cứu và các tổ chức KHCN.

Tính đến hết năm 2017, trong các cơ sở GD ĐH đã có 945 nhóm nghiên cứu. Đây là những kết quả rất tích cực có tác động nâng cao năng lực nghiên cứu giảng dạy của các trường ĐH, thúc đẩy GD ĐH Việt Nam hội nhập với GD ĐH quốc tế đồng thời qua đó góp phần đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên và giảng viên trẻ.

Số lượng các công bố, đặc biệt là công bố quốc tế và ảnh hưởng khoa học thể hiện qua mức độ được trích dẫn tăng mạnh, góp phần cải thiện vị thế của các cơ sở GD ĐH Việt Nam trong bảng xếp hạng các trường ĐH thế giới.

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (ĐH Quốc gia HN), năm 2013, trước khi có Nghị quyết 29, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2.309 bài. Sau Nghị quyết 29, tính từ 2017 đến tháng 6-2018, chỉ tính riêng công bố quốc tế của 30 trường ĐH hàng đầu Việt Nam, đã đạt 10.515 bài, bằng tất cả công bố trên toàn quốc giai đoạn 5 năm 2011-2015.

Theo thống kê từ gần 150 trường ĐH trong toàn hệ thống, số lượng các tổ chức KHCN (Phòng thí nghiệm – PTN; Trung tâm nghiên cứu – TTNC; Viện nghiên cứu – VNC, Cty KHCN – Cty KHCN; Xưởng sản xuất – XSX...) đã đăng ký hoạt động và chưa đăng ký hoạt động của các trường ĐH trong toàn ngành giáo dục là tương đối lớn, với tổng số lên đến 1.413 tổ chức/142 trường ĐH được điều tra.

Như vậy, với việc tăng cường chất lượng, năng lực đào tạo gắn với KHCN để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, GD ĐH đang ngày càng khẳng định vị thế vai trò của mình và đã được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận đánh giá, trong đó có WIPO, QS và World Bank.

Phan Thủy

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.vn/dong-gop-lon-tu-doi-ngu-khoa-hoc-cong-nghe-nganh-giao-duc-125446.html