Đôi điều cảm nhận về giải thích kinh điển

Viết được một cuốn sách mới là đại nghiệp thiên thu; chúgiải được một bộ cổ văn là hoằng công vạn đại.

著 得 一 部 新 書, 便 是 千 秋 大 業;注 得 一 部 古 書, 允 為 萬 世 宏 功

Trước đắc nhất bộ tân thư, tiện thịthiên thu đại nghiệp; chú đắc nhất bộ cổ thư, doãn vi vạn thế hoằng công. (Trương Trào - U mộng ảnh)

Người xưa viết sách là dốc cả tâm tư, đẽo gọt ruột gan để ghi vào ngọn bút - Ảnh minh họa

Chưa bao giờ kinh điển lạiđược xuất bản nhiều và phong phú như hiện nay. Những cuốn kinh mà ngày xưa taphải đỏ mắt đi tìm thì giờ đây có thể dễ dàng tìm thấy trong các tiệm sách, hoặcngay trên mạng. Kỹ thuật in ấn đã giúp cho việc lưu bá kinh điển trở nên vôcùng thuận lợi. Bất kỳ ai có tâm cầu pháp đều có thể dễ dàng tiếp cận với khotàng kinh điển Phật giáo. Và bên cạnh các ấn phẩm kinh điển phong phú đó là nhữngcuốn sách chú giải, với vô vàn thể loại, khiến người đọc không khỏi rối mắt trướccảnh “đa thư loạn mục”. Nhưng có một điều đáng suy ngẫm là rất nhiều cuốnsách chú giải với kiến thức hời hợt và suy diễn máy móc vẫn ngập tràn trên thịtrường sách vở. Liệu những cuốn sách đó giúp ích được gì cho việc tìm hiểu kinhđiển, và đóng góp được gì cho việc hoằng dương Chánh pháp?

Trước khi bàn đến những trang kinh Phật uyên áotrong nội điển, ta chỉ thử xét đến quan niệm của người xưa về các cổ thư ngoạiđiển. Người xưa viết sách là dốc cả tâm tư, đẽo gọt ruột gan để ghi vào ngọnbút. Viết được một bộ sách bằng huyết lệ để lưu truyền cho hậu thế, kiệt trí tậntâm, cái đó xứng đáng gọi là “đại nghiệp thiên thu”. Đỗ Phủ từng nói:

Văn chươngthiên cổ sự,

Đắc thất thốntâm tri.

文 章 千 古 事 ,

得 失 寸 心 知 。

(Văn chương là chuyện ngàn năm,

Được hay mất,chỉ tấc lòng biết thôi.)

Tào Phi trong Điển luận 典 論 viết:

Văn chươnglà đại nghiệp trị nước, là thịnh sự ngàn đời. Tuổi thọ rồi có lúc hết, vinh hoavui thú rồi có lúc dứt với thân này, những thứ đó tất nhiên sẽ đến theo lẽ thường,sao bằng được sự vô cùng của văn chương. Cho nên các tác giả thời cổ gởi thânnơi bút mực, ghi lại ý tưởng nơi sách vở, không dùng đến ngôn từ của quan sử,không dựa dẫm thế lực của quan quyền, mà văn chương tự nhiên được lưu truyền hâụthế.

(Cái văn chương, kinh quốc chi đại nghiệp, bấthủ chi thịnh sự. Niên thọ hữu thời nhi tận, vinh lạc chỉ hồ kỳ thân, nhị giả tấtchí chi thường kỳ, vị nhược văn chương chi vô cùng. Thị dĩ cổ chi tác giả, kýthân ư hàn mặc, hiện ý ư thiên tịch, bất giả lương sử chi từ, bất thác phi trìchi thế, nhi thanh danh tự truyền ư hậu. 蓋 文 章 , 經 國 之 大 業 , 不 朽 之 盛事 。 年 壽 有 時 而 盡 , 榮 樂 止 乎 其 身 , 二 者 必 至 之 常 期 , 未 若 文 章 之 無 窮 。 是 以 古 之 作 者 , 寄身 於 翰 墨 , 見 意 於 篇 籍 , 不 假 良 史 之 辭 , 不 託 飛 馳 之 勢 , 而 聲 名 自 傳 於 後 。).

Cổ nhân quan niệm về văn chương sâu xa là thế, háđâu phải là thứ văn chương hời hợt của đời nay! Văn chương trong các cổ thư ngoạiđiển đã là thế, huống gì là các bộ Phật kinh? Nhiều người đọc được một vài cuốnsách cứ tự cho mình có thể chú giải kinh sách, và vì ai cũng có điều kiện insách, ai cũng đều có thể đăng bài trên mạng xã hội, nên tình hình chữ nghĩa dầntrở nên rối loạn, Chánh pháp dần trở nên suy thoái.

Ngày xưa, điều kiện tra cứu rất khó, nên chú giảiđược một bộ sách cổ đòi hỏi phải có tâm huyết, sự kiên trì và kiến thức hơn người.Có tâm huyết và kiên trì mà không có kiến thức uyên bác, cũng không thể chú giảiđược. Có kiến thức uyên bác mà không có tâm huyết và kiên trì cũng khó chú giảicho xong. Những công trình chú giải nghiêm túc đem ơn ích cho đời không ít, chonên mới gọi là “vạn thế hoằng công”, tức công lao vĩ đại ngàn đời.

Hoàng Giao Tamnói:

Những chuyệnkhó trong đời, chú giải sách là một. Ngay ở những chỗ tầm thường nhất cũng cầnphải nhận ra được nỗi khổ tâm của tác giả. (Thế gian nan sự, chú thư đệnhất. Đại yêu ư cực tầm thường xứ, yêu khán xuất tác giả khổ tâm. 世 間 難 事 , 注 書 第 一 。 大 要 於 極 尋 常 處 , 要看 出 作 者 苦 心 。).

(http://www.guoxue.com/Newbook/book77/renshengzp/ymy069.htm).

Người chú giải không những phải có kiến giải và họcvấn ngang tầm tác giả, mà còn đặt mình vào hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả,nên giữa tác phẩm và lời chú giải thường có mối quan hệ theo lẽ “thanh khí ứngcầu”. Như Lâm Tây Trọng chú giải Nam Hoa kinh của Trang Tử, như BùiGiáng bình giải Truyện Kiều của Nguyễn Du v.v... Người xưa nghiêm túc làthế, chú giải cổ thư với tâm trạng cẩn trọng của người “đi trên băng mỏng”.Bởi thế, mỗi khi nhìn những cuốn sách biên khảo của các học giả Tăng có, tụccó, nào là Thuyết giảng kinh X., nào là Luận giải kinh Y., v.v...tôi không khỏi nhớ đến câu nói của Trương Trào mà giật mình. Hỡi ôi, đọc hiêủđược một câu kinh Phật cũng phải có túc duyên hãn hữu, lời Phật dạy toàn là nhữnglời “phị nhi ẩn”, “ngã thuyết... tức phi... thị danh”, cảnh giơítâm chứng của chư Phật là cõi bất khả tư nghì, chứ đâu có phải là thứ để đem rathuyết giảng bằng những ngôn từ cóp nhặt hời hợt suy tư, trống không tâm chứng?

Chú giải được một bộ cổ văn, đã là “vạn thế hoằngcông”, huống gì là chú giải Phật kinh? Nếu không có được xuất thế trí vàtúc duyên hãn hữu, mà cứ hì hục đem cái tục trí cạn cợt để hồ đồ “chú giải”thì tam thế chư Phật cũng đều phải chịu trầm oan. Tình cảnh đó không khác gì điêùTô Đông Pha nói trong lời tựa kinh Lăng-già:

Hễ được mộtcâu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũngvỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấpthì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật phápsuy vi vậy. (Đắc nhất cú nhất kệ, tự vị liễu chứng. Chí sử phụ nhân, nhụtử đề chưởng hy tiếu, tranh đàm thiền duyệt. Cao giả vị danh, hạ giả vị lợi. Dưba mạt lưu, vô sở bất chí, nhi Phật pháp vi hỹ. 得 一 句 一 偈, 自 謂 了 證 。 至 使 婦 人 孺 子 抵 掌 嬉 笑 爭 談 禪 悅。高者 為 名 。 下 者 為 利 。 餘 波 末 流 。 無 所 不 至 。 而 佛 法 微 矣 。). (lời tựa chobản dịch kinh Lăng-già của Cầu Na Bạt Ðà La).

Nếu các “học giả” đó mà hiểu được rằng “Mộtvài lời ẩn mật, một chút cơm thừa của Như Lai, cũng quá đủ để thụ dụngsuốt bình sinh tại thể” như nhà thơ Bùi Giáng từng cảnh tỉnh (Ngày thángngao du, NXB.Văn Hóa Sài Gòn, 2008, tr.113) thì hẳn đã phải vô cùng cẩn trọngkhi cầm bút chú giải Phật kinh. Một giảng viên khi giảng bài cho sinh viên trêngiảng đường thì phải thấu hiểu và hoàn toàn nắm vững vấn đề mà họ giảng dạy. Aitrong các tác giả chú giải kinh điển có thể khẳng định mình thấu hiểu và hoàntoàn nắm vững nội dung những cuốn kinh mà mình chú giải hay thuyết giảng?

Tôi nhớ đến một câu chuyện tiếu lâm thật thú vị vềchuyện lặp lại như con vẹt, mà không hiểu gì. Có một bé gái ăn sữa chua nhiêùnên bị trướng bụng. Mẹ dẫn đi khám bệnh, cô bác sĩ xoa bụng bé, rồi bảo: “Côbiết bụng cháu lớn là vì sao rồi. Thôi đi nghe!” Bé dạ và nhớ lời đó. Tuầnsau, có bạn của mẹ đến chơi, cô này đang có bầu nên bụng lớn. Bé nhớ lại câunói của bác sĩ, nên đến xoa bụng cô bạn của mẹ rồi nói: “Cháu biết bụng cô lớnlà vì sao rồi. Thôi đi nghe!”.

Nội dung lặp lại không cógì sai, thậm chí hoàn toàn chính xác, nhưng hậu quả thì không cần nói ta cũngcó thể hình dung. Mọi sự lặp lại nội dung kinh điển mà không có sự trải nghiệmchân thực đều là hiểm họa. Trong cõi tư tưởng, chân lý khi lặp lại có thể sẽkhông còn là chân lý nữa. Đó cũng là tình trạng “y kinh giải nghĩa, tam thếPhật oan” mà các bậc cổ đức đã cảnh tỉnh cho tất cả những ai không có chântài thực học, chưa từng trải qua cảnh giới tâm chứng nhưng lại cứ muốn đem kiếnthức từ chương để chú giải kinh điển và giảng dạy Phật pháp cho đại chúng.

Huỳnh Ngọc Chiến

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/triethoc/2019/07/29/7be48a/