Đình Chèm - Báu vật 2000 năm tuổi của kinh thành Thăng Long

Nằm cạnh ven bờ sông Hồng đỏ rực phù sa, trải qua những chuyển biến văn hóa dưới nhiều thời đại, từ một ngôi đền thờ nơi đây đã thành đình Chèm.

Đình Chèm có niên đại khoảng 2000 năm.

Đình Chèm có niên đại khoảng 2000 năm.

Với những giá trị kiến trúc nghệ thuật đặc sắc đình Chèm đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, những câu chuyện nhuốm màu sắc liêu trai về đình Chèm càng khiến nơi đây trở nên linh thiêng, huyền bí.

Ngôi đình cổ nhất Việt Nam

Đình Chèm tọa lạc tại phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội. Ngôi đình có được một vị trí đẹp với thế nhìn sông, dựa núi. Thửa ban đầu, đình Chèm bắt đầu là một ngôi đền thờ, dưới nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho Giáo ngôi đền mới trở thành đình làng như ngày nay. Từ hàng nghìn năm nay, đây là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng: Thụy Phương (Chèm), Hoàng Xá, Hoàng Liên (Liên Mạc) của xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đình thờ đức Thánh làng Chèm, tức Lý Thân (còn gọi là Lý Ông Trọng hay Đức Thánh Chèm).

Theo truyền thuyết, Lý Thân sinh vào thời Hùng Duệ Vương, mất vào thời Thục An Dương Vương. Thuở nhỏ ông là một cậu bé cực kỳ khôi ngô, có tầm vóc cao lớn lạ thường. Lớn lên, Lý Thân là người văn giỏi, võ tài, tính tình hiếu nghĩa, cương trực. Thời bấy giờ có giặc Ai Lao, Chiêm Thành và phía Bắc thường hay quấy nhiễu biên thùy. Nhà vua xuống chiếu cầu người tài đức ra dẹp giặc cứu nước. Phủ Quốc Oai bèn tiến cử Lý Thân. Ông lĩnh ý đi dẹp tan giặc, lập được nhiều công lớn.

Cuối đời vua Duệ Vương, đất nước Văn Lang bị quân Tần xâm lược, ông hợp với Thục Phán cùng quân dân lạc Việt chống giặc hàng chục năm trời. Cuối cùng giặc phải quay đầu bỏ chạy, Thục Phán lên làm vua lấy hiệu là An Dương Vương. Lúc bấy giờ khi nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá. Tần Thủy Hoàng đắp Vạn Lý Trường Thành mà không ngăn chống nổi bèn sai sứ sang cầu An Dương Vương cho tướng tài sang giúp. Triều đình nhà Thục bèn cử Lý Thân sang giúp nhà Tần để tạo mối bang giao giữa hai nước.

Mái đình được chạm khắc hình rồng theo phong cách nhà Nguyễn.(Ảnh VNE).

Tần Thủy Hoàng thử tài thấy văn đạt "Hiếu Liêm" (tiến sĩ), võ đạt "Hiệu úy" (Tổng chỉ huy) bèn phong ông làm tư lệnh Hiệu úy và nhờ Ông đi dẹp giặc Hung Nô, cho xuất 10 vạn quân trấn ải Hàm Dương. Thắng trận trở về, vua Tần phong ông chức Phụ Tín Hầu và gả công chúa cho. Vua Tần cũng ngỏ ý muốn giữ ông ở lại nước Tần nhưng ông đã từ bỏ vinh hoa phú quý, đem theo vợ con trở về quê hương. Về nước, ông được vua Thục An Dương Vương phong tước Đại Vương. Sau khi ông qua đời, nhà vua sai lập đền thờ và phong tặng 4 chữ “Thượng đẳng Thiên vương” chính là đình Chèm ngày nay.

Ngoài ra, ít ai biết được rằng đình Chèm từng là địa điểm an toàn cho các chiến sĩ cách mạng trú ngụ trước khi vào nội thành hoạt động. Nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt và từng được người dân làng Chèm cưu mang trong thời kỳ hoạt động bí mật.

Sự kiện “Kiệu đình Chèm”

Theo lời kể của dân làng thì đình có niên đại cách đây hơn 2000 năm. Làng Chèm vì nằm cạnh sông Hồng nên thường xuyên bị lũ lụt đe dọa. Vào năm 1902, đình được kiệu lên cao thêm 2,4 mét chỉ bằng các dụng cụ của nhà nông như: đinh bừa, quang gánh... Công việc diễn ra trong vòng một năm trời và kết quả cực kỳ mỹ mãn. Cả một ngôi đình nặng hàng trăm tấn toàn bằng gỗ quý với những cột kèo phức tạp được “kiệu” lên cao ngang với mặt đê sông Hồng. Cuộc kiệu đình này tốn hết 500 đồng tiền Đông Dương mà công xá ngày ấy chỉ có 7 xu một ngày. Hiệp thợ kiệu đình do ông Vương Văn Địch ở làng Văn Trì chủ trì.

Đình Chèm đã qua nhiều lần tu sửa, vào các năm: 1631, 1773, 1792, 1885, 1902, 1913. Nhiều công trình bị xuống cấp, trong đó cổng tam quan, nhà tổ được xây dựng mới.

Nghệ thuật chạm khắc được thể hiện một cách tinh xảo ở đình Chèm.

Theo ông Nguyễn Mạnh Thìn, Trưởng Ban quản lý Di tích đình Chèm, quá trình hình thành và xây dựng đình Chèm cũng ghi dấu nhiều sự tích, truyền thuyết ly kỳ. Dân làng Chèm vẫn thường kể với nhau rằng, vào khoảng từ năm 205 -–207 TCN, sau khi Đức Thánh Chèm mất, đình Chèm đã được xây dựng. Ban đầu, nơi thờ ông chỉ là một cái am nhỏ, đến khi một vị quan từ phương Bắc là Triệu Sương sang làm kinh lược cứ, ông nằm mơ thấy Đức Thánh Chèm tới đàm đạo cùng ông về sách chính sử. Trong cuộc đàm đạo, Triệu Sương có hỏi thăm và biết ngài đã mất tại quê nhà nên sau đó tìm đến nơi thăm nhưng chỉ thấy một cái am nhỏ.

Sau này, Triệu Sương qua tìm hiểu thì biết được Đức Thánh Chèm là một người tài giỏi, được người dân nước Việt và cả vua phương Bắc sùng bái nên đã cho xây dựng thành đền thờ to hơn. Từ năm 785, đến năm 864, lúc bấy giờ Cao Biền sang làm đô hộ sứ thì cũng được ngài linh mộng báo, giúp cho Cao Biền đánh giặc phương nam thành công. Cao Biền về sau để tỏ lòng biết ơn đã sửa lại đền của ông Triệu Sương, lấy gỗ quý để tạc tượng và đặt cho đền là đền Lý Hiệu Úy, bấy giờ dân ta thường gọi là Đền Chèm.

Đình Chèm được thiết kế theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc. Cổng tam quan hướng về sông Hồng, trên đỉnh của 4 cột trụ của cổng đình là hình chim phượng, ở bốn góc trụ có đắp hình rồng uốn lượn, bốn mặt trụ là hình hổ phù lớn, phía dưới là lồng đèn giả, bên trong đắp nổi hình tứ linh. Tất cả trang trí đắp bằng vữa đều còn dấu tích gắn mảnh sứ hoa lam - đặc trưng của nghệ thuật trang trí thời Nguyễn. Sau cổng tam quan là ba nhà bia, nơi ghi công đức của những người đóng góp tu sửa đình.

Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc (là nơi để các đồ thờ và sắp xếp lễ vật dâng cúng đức Thánh trong các ngày lễ hội), phương đình tám mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thành hình chữ công.

Tòa Đại bái (khu nhà lớn nhất trong kiến trúc đình, là nơi diễn ra lễ tế thành hoàng) của đình Chèm được kết cấu bởi 2 bộ khung nhà nối liền nhau nên bộ mái cũng được hình thành nên 2 bộ khung 6 mái hết sức độc đáo. Trên nóc mái của tòa Đại bái có đắp nổi hình hai đám mây, hai đầu nóc đắp hình long mã, mình gắn sứ. Hai đầu kìm là những hình đao cong vút, có trang trí nghê với tư thế vờn mây, trên mình có khảm sứ. Phía đỉnh đao là hình đầu rồng.

Bộ khung gỗ của Đại bái được trang trí đẹp và công phu nhất. Tất cả các vì tại các vị trí như đấu kê, đầu các con rường đều được soi, chạm tọa thành các guột hoa lá uốn lượn mềm mại, đặc biệt, một số vị trí được chạm khắc hết sức công phu trong đó tập trung nhất ở các vì gian giữa và hai gian bên.

Ở các đầu bẩy phía trước được trang trí rất công phu, mỗi đầu bẩy là một đề tài trang trí. Nghệ thuật chạm khắc ở đây chủ yếu là những linh vật như rồng, phượng, chim, cá, rùa, long mã và những con vật gắn với tư duy của người Việt xưa.

Hậu cung có án thờ, sập thờ, long ngai, bài vị, khám thờ vợ chồng ông Lý Ông Trọng và các tượng chầu. Các cột, vì kèo trong đình làm bằng gỗ quý, trải qua thời gian không bị mối mọt. Tại đình còn giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, cách đắp tượng dưới thời Nguyễn; ba sắc do các vua triều Nguyễn phong thần cho Lý Ông Trọng; bốn bia đá, một tấm thời Lê Cảnh Hưng và ba tấm bia thời Nguyễn; hai chuông đồng đúc dưới thời Nguyễn; 15 câu đối, tám bức hoành phi và 10 pho tượng thờ.

Toàn cảnh đình Chèm nhìn từ trên cao.

Mái đình được chạm trổ tinh vi với hình rồng cuốn thủy, rồng mây, tứ linh, cá hóa rồng, hoa lá, vân mây sóng nước mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18). Điểm đặc biệt nhất trong kiến trúc đình Chèm là những hoa văn được khắc ngay trên mái kèo chứ không phải ghép như nhiều đình khác. Hai mái kèo ở hai bên mái đình không được khắc đối xứng mà mỗi mái kèo có một hoa văn rất riêng. Trên các bộ vì ngắn, các bức cốn chạm hình rồng mây, rồng cuốn thủy, cá chép hóa rồng, tứ linh với các đường nét chạm mềm mại, trau chuốt. Đặc biệt là bức chạm khắc rồng cuốn nước, phượng ngậm thư có giá trị rất đặc sắc, quý hiếm.

Tại khuôn viên Đình Chèm có hệ thống máng dẫn nước mưa được đúc bằng đồng vào các năm 1748, 1756, thời vua Lê Hiển Tông và thời vua Minh Mệnh (nhà Nguyễn) năm 1824.

Năm 1990, Đình Chèm được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Lễ hội Chèm là lễ hội lớn trong vùng, diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5 âm lịch, trong đó, ngày 15 là ngày hội chính. Theo sử sách để lại, lễ hội đình Chèm được tổ chức để kỷ niệm ngày thắng trận khải hoàn mở hội mừng công và làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ của Đức Thánh Lý Ông Trọng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Nhưng sâu xa hơn là nghi lễ cầu mưa thuận gió hòa, cho mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp đồng bằng sông Hồng.

Tiểu Vũ

Nguồn Pháp Luật Plus: https://www.phapluatplus.vn/van-hoa-giai-tri/dinh-chem--bau-vat-2000-nam-tuoi-cua-kinh-thanh-thang-long-d153739.html