Điều trị dự phòng để loại trừ nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ sang con

Nếu không được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, cứ 100 bà mẹ nhiễm HIV mang thai sẽ có 35 trẻ sinh ra lây truyền HIV từ mẹ. Nhưng nếu được điều trị dự phòng chỉ có khoảng 5 trẻ sinh ra bị lây truyền căn bệnh này từ mẹ.

Bé V.A (2 tuổi, Lào Cai) đến bệnh viện nhi trung ương khám trong tình trạng sức khỏe vô cùng nguy hiểm đến tính mạng, sau khi xét nghiệm bé V được phát hiện nhiễm HIV. Được biết mẹ của bé cũng đã qua đời sau khi sinh bé được vài tháng. Các bác sỹ cho rằng bé V bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Do gia đình bé ở vùng sâu vùng xa lại không có điều kiện đến các bệnh viện có đủ điều kiện khám chữa bệnh và xét nghiệm nên bé V bị nhiễm HIV gần 2 năm mà không ai biết.

Không chỉ có bé V.A, bé N. ở Hà Giang cũng bị nhiễm HIV do mẹ truyền sang. Khi được phát hiện nhiễm HIV, bé N. đã được 6 tháng tuổi và cũng trong tình trạng viêm phổi nặng. Thậm chí, khi được thông báo bị nhiễm HIV, mẹ bé N. vẫn dửng dưng như không vì nghĩ rằng căn bệnh này cũng giống như những bệnh đơn thuần khác, cứ uống thuốc là khỏi.

Câu chuyện buồn đó chỉ là một trong số khá nhiều câu chuyện trẻ lây nhiễm HIV từ mẹ đang ẩn quanh đâu đó trong xã hội bởi những trường hợp con lây truyền HIV từ người mẹ không còn là chuyện hiếm gặp.

Có một sự thật rằng, nhiều phụ nữ mang thai không đi xét nghiệm trước thai kỳ. Phòng, chống HIV là một công tác đòi hỏi thực tế, thực địa tại các vùng miền. Nhờ sự phát triển của công tác điều trị, phòng, chống mà tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con đã giảm đáng kể. Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Tuy nhiên ở nhiều vùng miền, tỷ lệ phụ nữ mang thai đi xét nghiệm trước và sau thai kỳ chỉ chiếm số lượng ít.

Mục tiêu của toàn xã hội là đến năm 2020 sẽ giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 2%. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này, cần phải có sự tham gia tích cực hơn nữa của các cơ sở y tế, đặc biệt là cơ sở y tế tại các phường/xã trong công tác dự phòng lây truyền mẹ con như tăng cường độ bao phủ xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai, tăng cường xét nghiệm trong thời kỳ mang thai,…

Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế

Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế

Bên cạnh đó, khi việc thực hiện chuyển tiếp giữa hai hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống HIV/AIDS, cần theo dõi chuyển tiếp phụ nữ mang thai HIV dương tính sang cơ sở chăm sóc điều trị để được theo dõi điều trị ARV ngay; chuyển tiếp mẹ và trẻ sau sinh sang cơ sở HIV/AIDS để được theo dõi điều trị cho đến khi trẻ khẳng định tình trạng nhiễm HIV.

Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai, vợ của những người nhiễm HIV trong độ tuổi sinh đẻ, phụ nữ sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người về lợi ích của xét nghiệm HIV sớm và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con sớm. Các đơn vị y tế và tổ chức xã hội cần tăng cường cung cấp dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho phụ nữ mang thai, cung cấp thuốc ARV cho phụ nữ nhiễm HIV bao gồm phụ nữ nhiễm HIV mang thai), đẩy mạnh các can thiệp, chất lượng dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

Nếu phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm HIV ở ba tháng đầu của thai kỳ được uống thuốc sớm và tuân thủ điều trị theo nguyên tắc 5Đ (uống thuốc đều, đúng giờ, điều nhiều, đúng chỉ định, đúng cách), xét nghiệm máu từ 3 đến 6 tháng/lần, tải lượng virus dưới 200 bản sao, thì nguy cơ lây sang con sẽ thấp. Việc xét nghiệm HIV ngay khi biết mình mang thai trong quý đầu của thai kỳ hoặc ngay lần khám thai đầu tiên điều trị thuốc thì tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con sẽ giảm đáng kể, với tỷ lệ chỉ còn 2 - 6%.

Việt Nam phát hiện trường hợp trẻ có HIV từ năm 1994 và thực hiện mở rộng chăm sóc điều trị HIV/AIDS cho trẻ từ năm 2004. Trong công tác chăm sóc, điều trị HIV/AIDS cho trẻ tại cộng đồng và gia đình, Việt Nam luôn được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá cao. Nhưng đến nay, vẫn còn những khó khăn cần khắc phục để bảo đảm cho trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có cuộc sống bình thường như bao trẻ em khác.

Nguồn Gia Đình VN: https://giadinhvietnam.com/dieu-tri-du-phong-de-loai-tru-nguy-co-nhiem-hiv-tu-me-sang-con-d164471.html