Đi dân công hỏa tuyến ở đường 9 Nam Lào

Những ngày đi dân công hỏa tuyến đường 9 Nam Lào tuy ngắn, nhưng trong hồi ức chúng tôi vẫn còn sống mãi...

Hồi ấy, chúng tôi hầu hết còn ở độ tuổi dưới 30, trái tim hừng hực bầu máu nóng. Quê hương bom đạn giặc Mỹ cứ ngút trời. Lòng chúng tôi ai cũng sục sôi như lửa đốt. Nhiều lứa đôi đã hoãn ngày cưới để xung phong lên đường ra trận theo tiếng gọi thiêng liêng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Chúng tôi những cán bộ ngân hàng từng quen tay bút cũng thấy bồn chồn, xao xuyến, ao ước được đứng trong hàng ngũ ấy.

Những người lính ngân hàng trên đường ra trận. Ảnh: NHNN Thừa Thiên - Huế cung cấp

Rồi cơ hội đã đến, đầu tháng 2/1971, Tỉnh ủy Quảng Bình có chủ trương huy động một số cán bộ đi “dân công hỏa tuyến đường 9 - Nam Lào”. Lần đầu tiên trong đời nghe đến “dân công hỏa tuyến” ai cũng ngỡ ngàng nhưng cũng hiểu đại khái là làm đủ mọi việc từ tải đạn, cáng thương, đến vận chuyển hàng hóa... tiếp sức cho bộ đội đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Chúng tôi như mở cờ trong bụng, viết đơn tình nguyện. Đội hình chúng tôi được Ban lãnh đạo ngân hàng duyệt 12 người, do anh Phan Văn Thành và Nguyên Văn Dung phụ trách.

Tuy mỗi người một hoàn cảnh: người mới cưới vợ đang tuần trăng mật, người có vợ vừa sinh con đầu lòng chưa đầy tháng tuổi, người có mẹ già neo đơn... Nhưng tất cả đều phấn chấn sắp xếp ổn định gia đình, tập trung đúng hạn tại Sở Thủy lợi Quảng Bình để nghe lãnh đạo Ủy ban Nhân dân tỉnh nói chuyện và biên chế tổ chức. Từ phút ấy mỗi chúng tôi như một người lính thực thụ, được trang bị mũ cối, ba lô con cóc, áo quần màu xanh lá cây, lên đường phải ngụy trang bằng lá cây rừng, nhất cử nhất động đều phải quân sự hóa.

Đêm 13/2/1971 bắt đầu hành quân về Châu Xá, qua Khe Bai (chiến khu xưa của huyện Lệ Thủy), vượt qua Thù Lù rồi đến đèo 1001 (giữa Quảng Bình và Quảng Trị). Vốn quen với công việc bàn giấy, cứ tưởng là không vượt qua được, nhưng rồi với nhiệt huyết của tuổi trẻ, tay chống gậy, chân bám riết đá tai mèo, đầu người này tưởng như đội chân người kia mà nối tiếp bước chân. Lên được đỉnh đèo, mồ hôi nhễ nhại, ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Giải lao ở đỉnh đèo, có được vài phút ngắm đất trời, ngắm đường Trường Sơn dằng dặc càng thấy quê hương, đất nước bao la hùng vĩ, núi liền núi sông liền sông với nước bạn Lào, trùng trùng điệp điệp, lòng ai cũng trào dâng một tình yêu Tổ quốc vô bờ.

Bữa cơm đời “lính” đầu tiên được tổ chức ở chân đèo, ăn cơm với cây đoác nấu với ruốc bông thật đạm bạc nhưng ấm áp tình đồng đội. Đêm ấy ngủ giữa rừng với những chiếc võng bạt căng lên giữa hàng cây, che trần bằng tấm ni lông, sáng sớm sương muối tí tách nhỏ giọt như tiếng nhạc rừng nghe thật vui tai. Hôm sau khi trời còn chưa rõ mặt người, để tránh máy bay địch oanh tạc chúng tôi phải vượt sông Xê Bang Hiêng qua cửa khẩu. Nước sông chảy xiết, chị em phải nhờ nam giới cõng trên vai và níu bằng sợi soong buộc từ hai cây đại thụ nối từ bên này sông qua bên kia sông mới vượt qua được.

Đến đây mới thật sự tạm biệt Quảng Bình, tạm biệt Việt Nam. Chúng tôi đến bản Xa Líc rồi bản Mường Chương (đất Lào) nơi chính thức làm nhiệm vụ cũng ròng rã mất 12 ngày đêm. Chân ai cũng rớm máu, đôi giày cao cổ đã rách như xơ mướp.

Ở đây giữa đồi núi lau sậy điệp trùng của nước bạn ai cũng thấy lạ lùng như trở về một thời kỳ cổ xưa nào đó. Nhưng dần dà rồi cũng quen. Nhiều tiểu đội phải dựng lán trại, có tiểu đội may mắn có hang lèn vào ở ngay. Nhưng vào được hang không phải là việc dễ dàng vì miệng hang thường nhỏ hơn nhiều lần so với đáy hang, muốn vào phải lần lượt từng người chuồi chân vào trước rồi trải người mới được. Chăn chiếu, gối cũng chỉ từ cái võng bạt và chiếc ba lô con cóc.

Đêm đầu tiên ở chiến trường không khí thật là lạ, nhưng ai cũng muốn bắt tay vào nhiệm vụ. Sau khi ổn định nơi ăn chốn ở, chúng tôi được phân công mỗi người mỗi việc. Anh chị em khỏe được phân công tải đạn, cứu thương, số yếu hơn thì bảo vệ, dựng kho, canh gác thám báo.

Cuộc sống ở chiến trường thật ác liệt. Địch biết quy luật ta hoạt động, đêm đêm máy bay Vo10 cứ vo ve, B52 gầm rú, pháo sáng cứ rực trời rồi bom na pan xanh lè mặt đất. Có lần địch phát hiện xe tăng của ta đã oanh tạc lấn vào doanh trại. Nhiều đêm bị đánh phá, nhiều ca trọng thương anh chị em cáng thương cứ trèo đèo, tụt dốc, lội suối, tránh làn pháo sáng của địch mới đưa được thương binh về bệnh viện hậu cứ. Trở về thì trời đã hửng sáng. Anh chị em ban ngày gác kho, ban đêm theo xe hàng mà bốc vác vận chuyển. Kho ở đây phần lớn là những hố bom sâu thẳm. Xe đến là cứ ném vào đấy, nào lương khô, thịt hộp, đậu xanh, gạo…

Nhiều đêm không chợp được mắt. Công việc chủ yếu cứ dồn vào ban đêm, ban ngày cũng có chút thì giờ tổ chức đời sống. Rừng dày trùm kín lại thiếu chất tươi, chưa tròn tháng mà màu da ai cũng bắt đầu ngả màu “kinacrin”. Chúng tôi phải thay nhau xuống khe câu cá, hái môn thục, vào bản đổi muối lấy rau, gà cải thiện.

Nhiệm vụ hàng ngày vất vả, lại phải di chuyển chỗ ở nhiều lần. Có khi nằm trong ngách hang 40, 50 người chen chúc cả nam lẫn nữ nhưng cuộc sống vẫn vui tươi đầm ấm như một gia đình. Nhiều chị em còn sáng tác thơ ca, tuy còn mộc mạc nhưng cũng để ghi nhận những ngày sống đáng tự hào ở đây.

Ôi Xa Líc, Mường Chương nhớ từng hang đá

Đá với ta là bạn ngày đêm

Những hòm đạn trên vai đè trĩu nặng

Thức suốt đêm mà chí vẫn bền

Pháo ta gầm đánh địch tả tơi

Ta góp phần của ta trong ấy

Thắng trận Nam Lào tiếng dội khắp nơi

Những ngày đi dân công hỏa tuyến đường 9 Nam Lào tuy ngắn, nhưng trong hồi ức chúng tôi vẫn còn sống mãi. Nhớ lại những đóng góp nhỏ của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ai cũng thấy tự hào. Trong lý lịch của mỗi người ở mục “đi nước ngoài” ai cũng ghi rõ ràng dòng chữ “Đi dân công hỏa tuyến đường 9 - Nam Lào”.

Văn Lạc (Nguyên cán bộ ngân hàng tỉnh Quảng Bình)

Nguồn TBNH: http://thoibaonganhang.vn/di-dan-cong-hoa-tuyen-o-duong-9-nam-lao-77404.html