Đề xuất nới lỏng điều kiện hưởng gói 62.000 tỷ đồng

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Nghị quyết 42/NQ-CP là hỗ trợ cho các đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất việc, thiếu việc làm, gặp khó khăn, không đảm bảo mức sống tối thiểu, chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các địa phương gặp một số vướng mắc và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra đề xuất sửa đổi một số nội dung trong Nghị quyết.

Quá trình thực hiện chính sách, các địa phương luôn bám sát vào mục tiêu, nguyên tắc về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, một số chính sách hỗ trợ cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp và người lao động được tiếp cận chính sách.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện gói hỗ trợ 62.000 tỷ trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện gói hỗ trợ 62.000 tỷ trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.

Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, so với dự kiến ban đầu số lượng đối tượng thụ hưởng của chính sách hỗ trợ người lao động còn ít, trong đó tập trung vào 3 nhóm đối tượng sau: Người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương tại doanh nghiệp; Người sử dụng lao động vay Ngân hàng Chính sách xã hội để trả lương cho người lao động bị ngừng việc; hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm.

Trên cơ sở tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện việc hỗ trợ các nhóm đối tượng, theo phản ánh của nhiều địa phương, cơ quan doanh nghiệp, một số chính sách hỗ trợ cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp và người lao động được tiếp cận chính sách, đồng thời cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình xác lập hồ sơ đề nghị của các đối tượng thụ hưởng.

Do đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất, tại khoản 1, mục II: Thay từ "doanh nghiệp" bằng từ "người sử dụng lao động" để có thể mở rộng đối tượng thụ hưởng tới các chủ thể khác ngoài doanh nghiệp như: Trường học, tổ chức, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân có sử dụng lao động. Sửa cụm từ "không có doanh thu hoặc không có nguồn tài chính để trả lương" thành "doanh thu quý I/2020 giảm 20% trở lên so với quý IV/2019 hoặc so với cùng kỳ năm 2019" để người sử dụng lao động tiếp cận tốt với chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Bổ sung nội dung: "Thời điểm bắt đầu tạm hoãn thực hiện Hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được tính từ ngày 23/01/2020 đến ngày 01/6/2020". Vì trong thực tế, có các trường hợp người lao động đã thực hiện tạm hoãn Hợp đồng lao động từ trước ngày 01/4/2020, quy định như trên nhằm tránh bỏ sót đối tượng trong quá trình tổ chức thực hiện (Ví dụ, người lao động tạm hoãn Hợp đồng lao động từ tháng 2 - 5/2020), việc hỗ trợ cho người lao động vẫn thực hiện tính từ ngày 01/04/2020 và không quá 3 tháng.

Cụ thể sửa đổi khoản này như sau: "Người lao động làm việc theo chế độ Hợp đồng lao động phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện Hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương từ 1 tháng trở lên do người sử dụng lao động gặp khó khăn bởi đại dịch Covid-19, có doanh thu quý I/2020 giảm 20% trở lên so với quý IV/2019 hoặc so với cùng kỳ năm 2019 thì được hỗ trợ với mức 1.800.000 đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ theo thời gian thực tế tạm hoãn thực hiện Hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương, theo hằng tháng tùy theo tình hình thực tế của diễn biến dịch, tính từ ngày 01/04/2020 và không quá 3 tháng. Thời điểm bắt đầu tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được tính từ ngày 23/1 đến 01/6/2020".

Tại khoản 2, mục II, đề nghị sửa cụm từ "Người sử dụng lao động gặp khó khăn về tài chính" thành "Người sử dụng lao động có doanh thu quý I/2020 giảm 20% trở lên so với quý IV/2019 hoặc doanh thu tại thời điểm xét hưởng giảm 20% so với cùng kỳ năm 2019". Lược bỏ nội dung "đã trả trước tối thiểu 50% lương ngừng việc cho người lao động theo Khoản 3, Điều 98 của Bộ luật Lao động" để người sử dụng lao động chủ động trong việc chi trả tiền lương cho người lao động.

Sửa cụm từ "trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6/2020" thành "trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 12/2020" để tiếp tục hỗ trợ cho người sử dụng lao động đến hết năm 2020 bằng nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách.

Lược bỏ nội dung "để trả phần lương còn lại và giải ngân trực tiếp hàng tháng đến người bị ngừng việc" bởi trong thực tiễn quy định này làm phát sinh thủ tục trong quá trình giải ngân của Ngân hàng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc linh hoạt các nguồn kinh phí để trả lương ngừng việc nhằm giữ chân người lao động.

Cụ thể sửa đổi khoản này như sau: "Người sử dụng lao động có doanh thu quý I năm 2020 giảm 20% trở lên so với quý IV/2019 hoặc doanh thu tại thời điểm xét hưởng giảm 20% so với cùng kỳ năm 2019 thì được vay không có tài sản đảm bảo tối đa 50% tiền lương tối thiểu vùng đối với từng người lao động ngừng việc trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 12/2020 theo thời gian trả lương thực tế nhưng không quá 6 tháng với lãi suất 0%, thời hạn vay tối đa 12 tháng tại Ngân hàng Chính sách xã hội".

Tại khoản 3, mục II, đề nghị bổ sung nội dung và sửa đổi như sau: "Hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm tạm ngừng kinh doanh từ ngày 01/04/2020 theo Quyết định của các cấp có thẩm quyền được hỗ trợ 1.000.000 đồng/hộ/tháng theo hằng tháng tùy theo tình hình thực tế của diễn biến dịch nhưng không quá 3 tháng".

Theo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, tính đến ngày 29/6/2020, các địa phương đã phê duyệt danh sách 15,8 triệu người thuộc các nhóm đối tượng được thụ hưởng với tổng kinh phí là 17,5 ngàn tỷ đồng. Hiện đã thực hiện giải ngân gần 11,3 nghìn tỷ đồng tập trung vào lao động tạm hoãn hợp đồng, không có giao kết hợp đồng, lao động mất việc, lao động tự do cùng các nhóm đối tượng yếu thế, bảo trợ xã hội, cận nghèo, người nghèo, người có công…

Mai Nam Sơn

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.com.vn/de-xuat-noi-long-dieu-kien-huong-goi-62000-ty-dong-283603.html