Để giảm nguy cơ thiên tai ở ĐBSCL: Ba giải pháp từ chuyên gia nước ngoài

Góp phần thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu, tuần rồi, nhiều chuyên gia và nhà quản lý đã đề xuất các giải pháp căn cơ và thiết thực tại hội thảo 'Hướng đến phát triển bền vững ĐBSCL', tổ chức ở Cần Thơ.

Sản xuất lúa vụ 3 ở ĐBSCL và đê lũ tràn đồng ở Campuchia.

Ba giải pháp căn cơ

Theo TS. Andrew Wyatt, Quản lý chương trình Mekong, thuộc Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), ĐBSCL có thể tránh được sự gia tăng của nguy cơ thiên tai do phát triển thiếu bền vững nếu áp dụng được ba giải pháp liên quan về bảo tồn, di dời và quy hoạch từ đất liền ra tới biển.

Với vùng hấp thu lũ ở Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, TS. Andrew Wyatt cho rằng cần phải bảo tồn và khôi phục bằng cách chuyển sang các mô hình nông nghiệp dựa vào lũ để hấp thu được nước lũ và giảm sụt lún, bảo đảm nguồn nước ngầm và bồi đắp phù sa.

Với các vuông tôm thâm canh thiếu bền vững, ông đề xuất nên di dời ra xa vùng ven biển và thay thế bằng mô hình tôm - rừng để bảo vệ bờ biển. Làm được như vậy sẽ hạn chế việc bơm nước ngầm gây sụt lún, giúp duy trì độ cao của đồng bằng và đối phó phần nào với nước biển dâng nhờ có phù sa bồi đắp.

Về quy hoạch vùng phòng hộ bờ biển ĐBSCL, theo ông, cần tránh cách tiếp cận tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay. “Không nên xây dựng hệ thống đê kè bảo vệ mà cần hướng đến giải pháp mạnh hơn là khoanh vùng phòng hộ; như vùng biển Đông ở Cà Mau nên áp dụng hệ thống canh tác tôm - rừng đồng thời với việc duy trì và bảo vệ nghiêm ngặt vùng 500 mét rừng ngập mặn ngoài đê ven biển”, ông nói.

Lý giải cho đề xuất này, TS. Andrew Wyatt cho biết hiện nay ĐBSCL đang đứng trước ba thách thức khẩn cấp về phát triển trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu.

Thứ nhất, đó là việc quản lý lũ thiếu bền vững do hệ thống đê bao cao làm gia tăng rủi ro của thiên tai và có thể đẩy các rủi ro này sang nơi khác, về vùng hạ lưu sông Tiền, sông Hậu. Ví dụ từ năm 2000-2011, dự trữ lũ của vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười giảm 50%, từ 9.200 tỉ mét khối xuống còn 4.700 tỉ mét khối nước do bao đê làm lúa vụ 3.

Thứ hai, đó là việc sử dụng đất thiếu bền vững liên quan đến việc quản lý không tốt nguồn nước ngầm và phù sa. Vấn đề này đã gây ra tình trạng sụt lún đồng bằng nhiều gấp đôi so với nước biển dâng.

Thứ ba, đó là việc thiếu quy hoạch đầy đủ về vùng biển. Việc này đã làm tăng rủi ro thiên tai do các cơn bão lớn và nước biển dâng.

TS. Andrew Wyatt dẫn chứng, hệ thống rừng ngập mặn ven biển hiện nay không đủ khả năng chống chọi với nước biển dâng do việc mất nguồn phù sa từ thượng nguồn về đã gây xói lở bờ biển và làm mất đi nhiều cánh rừng ngập mặn. Ngoài ra, chương trình củng cố, nâng cao hệ thống đê biển hiện nay của Nhà nước là không đủ khả năng giúp bờ biển chống chịu được với thiên tai. “Nhiều vùng ven biển ở ĐBSCL không có đủ 500 mét rừng ngập mặn để bảo vệ đê biển, trung bình mới chỉ có 100-200 mét ngoài đê”, ông nói.

Bên cạnh các vấn đề này, mô hình sinh kế để thích ứng với biến đổi khí hậu của các địa phương ở ĐBSCL hiện nay cũng thiếu bền vững. “Sinh kế nông nghiệp dựa vào lũ là giải pháp dựa vào tự nhiên tốt nhằm giảm thiểu tác hại của lũ. Ví dụ như các mô hình lúa - cá, lúa mùa, mô hình tôm - rừng... mà nông dân nhiều nơi ở ĐBSCL đã áp dụng cần được bảo tồn và phát triển”, TS. Andrew Wyatt đề xuất.

Những việc cần làm sắp tới

TS. Trần Công Thắng, Phó viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết viện này đang soạn thảo kế hoạch chuyển đổi kinh tế ĐBSCL trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ. Theo đó, hướng tới, ĐBSCL không nên tiếp tục xây dựng đê bao khép kín, chỉ tập trung gia cố đê để ngăn lũ tháng 8, hỗ trợ sản xuất; linh hoạt trữ, điều tiết lũ và nâng cao khả năng tiêu thoát lũ. Như vậy, sẽ không duy trì sản xuất lúa số lượng lớn mà tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, giảm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và gia tăng diện tích lúa chất lượng cao. Về trái cây, sẽ khuyến khích trồng sản phẩm có giá trị cao theo nhu cầu của thị trường kết hợp với trồng màu, cây cảnh, cá, tôm càng xanh...

Về giải pháp, TS. Trần Công Thắng cho biết sẽ huy động nguồn lực tổng hợp của trung ương, địa phương, doanh nghiệp. Song song đó là xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, đổi mới tổ chức sản xuất; đẩy mạnh phát triển công nghệ và phát triển nguồn nhân lực; tăng cường hợp tác quốc tế và liên kết ngành, liên kết vùng. “Việc chuyển đổi nông nghiệp ở ĐBSCL cũng phải gắn với các khu vực khác như công nghiệp, dịch vụ... và gắn kết đồng bộ với các giải pháp tổng thể về thủy lợi, cơ sở hạ tầng, công nghiệp”, ông Thắng nhấn mạnh.

Đồng thuận với những đề xuất này, ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, bổ sung hai giải pháp: thay đổi tư duy và tích hợp liên kết khi thực hiện. Ông Hoan nói Nghị quyết 120/CP có nêu quan điểm phải thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Từ đó, phải giúp nông dân thay đổi cách làm nông chỉ chuyên về số lượng sang chất lượng gắn với thị trường; nhưng đây là việc khó nếu các chủ trương, chính sách... không xuống tới được chính bà con nông dân. “Muốn thay đổi tập quán canh tác của nông dân không dễ vì trong thực tế, nhiều loại nông sản phải kêu gọi xã hội “giải cứu” trong khi lúa gạo thì không hề, do vậy bà con chỉ biết bám vào cây lúa”, ông Hoan nói. Về việc liên kết, ông Hoan cho rằng ĐBSCL có các viện nghiên cứu về lúa gạo, trái cây, thủy sản và trường Đại học Cần Thơ nhưng lâu nay chưa liên kết. Ông Hoan đề nghị các đơn vị này cần tích hợp lại các giải pháp chung cho ĐBSCL.

Huỳnh Kim

Nguồn Saigon Times: http://www.thesaigontimes.vn/282206/de-giam-nguy-co-thien-tai-o-dbscl-ba-giai-phap-tu-chuyen-gia-nuoc-ngoai-.html