Đây là điều quan trọng hơn với nền kinh tế Việt Nam?

Chúng ta tự hào về tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu ngày càng cao, về kết quả xuất siêu ngày càng lớn

Nhưng thực tế những kết quả đó lại không đóng góp được nhiều cho kinh tế trong nước và nguyên nhân là do cấu trúc của nền kinh tế quá lạc hậu.

Số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa của Tổng cục Thống kê cho thấy sản lượng điện thoại di động năm 2020 đạt 253,2 triệu chiếc, gấp 1,3 lần năm 2016; trong quí 1-2021 đạt 54,4 triệu chiếc, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

Nhóm hàng điện thoại di động và linh kiện, máy tính và linh kiện cũng tiếp tục dẫn đầu về xuất khẩu của Việt Nam khi năm vừa qua đạt kim ngạch 50,9 tỉ đô la Mỹ.

Tốc độ xuất nhập khẩu ngày càng cao nhưng không đóng góp được nhiều cho kinh tế trong nước. Ảnh: H.P

Tốc độ xuất nhập khẩu ngày càng cao nhưng không đóng góp được nhiều cho kinh tế trong nước. Ảnh: H.P

Điện thoại di động và linh kiện, máy tính và linh kiện sản xuất tại Việt Nam chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu.

Số liệu đến tháng 2-2021 cho thấy phần lớn những sản phẩm này thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó điện thoại và linh kiện chiếm 99,1%; hàng điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98%.

Nhiều bài viết định danh những sản phẩm kể trên của các doanh nghiệp FDI sản xuất ở Việt Nam là Made in Vietnam.

Xét ở khía cạnh địa chỉ sản xuất ra nó thì cũng chẳng sai, nhưng nếu nhìn vào bản chất thì có cái gì gờn gợn vì hàm lượng của Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị của sản phẩm này rất thấp, hầu như chỉ là công lắp ráp, điện, nước và bao bì.

Những sản phẩm này được xuất khẩu thực chất là xuất khẩu hộ nước khác và nếu được tiêu dùng trong nước thực ra là sử dụng hàng nhập khẩu với hình thức và tên gọi khác mà thôi.

Việc dẫn ra những quy định của cơ quan này cơ quan nọ, hay của tổ chức này tổ chức nọ để xác định những sản phẩm này là Made in Vietnam cũng không xóa nhòa đi được thực tế đó.

Nghiên cứu về giá trị tăng thêm trong thương mại dựa trên bảng vào - ra (input - output) liên quốc gia công bố bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) để tính toán sự lan tỏa của sản phẩm cuối cùng (bao gồm cho nhu cầu nội địa(1), nhu cầu của các nước khác trong mô hình) không chỉ lan tỏa đến giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của nước đó mà còn lan tỏa đến giá trị tăng thêm của các nước khác mà nước đó có quan hệ thương mại.

Nước nào sử dụng nhiều đầu vào từ nước khác trong quá trình sản xuất sẽ kích thích đến sản lượng của nước khác, qua đó kích thích quá trình tạo thu nhập của nước khác.

Kết quả tính toán bước đầu cho thấy, ảnh hưởng của xuất khẩu của Việt Nam lan tỏa đến giá trị sản xuất của Việt Nam thấp nhất trong các quốc gia trong mô hình (Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ và EU).

Xuất khẩu của Việt Nam tăng lên một đơn vị sẽ lan tỏa đến sản lượng của Việt Nam 75,4%, và 22,8% sẽ lan tỏa sang Trung Quốc. Nhưng sự lan tỏa này đến giá trị tăng thêm của Việt Nam chỉ còn 72,2% và lan tỏa đến giá trị tăng thêm của Trung Quốc tăng lên 24,8%.

Ảnh hưởng của xuất khẩu đến giá trị sản xuất của Trung Quốc là tốt nhất, nếu xét ảnh hưởng của xuất khẩu đến giá trị tăng thêm thì Mỹ là tốt nhất.

Ngoài ra, khi tính toán về lan tỏa của cầu cuối cùng(2) ảnh hưởng đến phía cung trong nước và nhập khẩu, cho thấy cầu cuối cùng của Việt Nam lan tỏa đến giá trị sản xuất khá mạnh, chỉ sau Trung Quốc, nhưng trớ trêu là cơ bản lại kích thích sản lượng của Trung Quốc, chiếm gần 68% trong tổng giá trị sản xuất cho nhu cầu cuối cùng của Việt Nam, trong khi chỉ kích thích sản lượng trong nước của Việt Nam 24,6%.

Trong khi đó cầu cuối cùng của Trung Quốc kích thích sản lượng trong nước rất mạnh, nhu cầu cuối cùng cũng kích thích sản xuất của Mỹ và EU tương đối tốt. Cầu cuối cùng của Trung Quốc, Mỹ và EU kích thích lẫn nhau một cách tương đối bằng phẳng. Trong khi đó cầu cuối cùng của Trung Quốc, Mỹ và EU hầu như không có ảnh hưởng gì đến Việt Nam.

Việt Nam có chỉ số lan tỏa và độ nhạy đến giá trị sản xuất rất thấp, trong khi hai chỉ số này của Trung Quốc cao nhất. Điều này hàm ý rằng cấu trúc của nền kinh tế Trung Quốc có tầm quan trọng tương đối cao với Mỹ và EU.

Ngược lại, cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam không có ảnh hưởng nhiều đối với các nước được khảo sát trong mô hình. Điều này không hoàn toàn do quy mô nền kinh tế Việt Nam nhỏ hơn các nước mà do cấu trúc sử dụng sản phẩm làm đầu vào cho sản xuất trong nền kinh tế Việt Nam.

Việt Nam tuy nhận một số sản phẩm là của Việt Nam (Made in Vietnam), nhưng thực chất chỉ làm gia công, lắp ráp...

Để làm rõ hơn sản phẩm cuối cùng được sử dụng cho nhu cầu trong nước của mỗi quốc gia lan tỏa đến giá trị tăng thêm ra sao, kết quả tính toán qua mô hình cho thấy lan tỏa từ sản phẩm cuối cùng của Việt Nam đến giá trị tăng thêm là rất thấp, chỉ bằng gần một nửa mức lan tỏa của cầu cuối cùng của Trung Quốc, Mỹ và EU (một đơn vị sản phẩm cuối cùng sử dụng cho nhu cầu trong nước lan tỏa đến giá trị tăng thêm của Việt Nam là 0,45 đơn vị, trong khi của Trung Quốc là 0,97, Mỹ là 0,94 và EU là 0,95).

Việt Nam trong nhiều năm qua vẫn mải miết vui buồn tăng trưởng GDP, quy mô GDP và thặng dư thương mại mà dường như lãng quên đi cái quan trọng hơn là cấu trúc kinh tế.

Tất nhiên việc so sánh cấu trúc kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc, Mỹ và EU có phần hơi khập khiễng nhưng cũng để thấy cấu trúc kinh tế của Việt Nam thực sự rất lạc hậu.

Việt Nam đã nhiều năm kêu gọi phát triển sản xuất sản phẩm hỗ trợ và thậm chí đã nhận nhiều sản phẩm thực chất chỉ làm gia công, lắp ráp là sản phẩm của mình với những quy định mang tính hình thức.

Để thực sự chuyển mình cần nhìn nhận vấn đề một cách minh bạch và chấp nhận sự thật để thay đổi. Nếu không bao giờ bắt đầu hoặc chỉ bắt đầu bằng những lời nói và khẩu hiệu sẽ không bao giờ tới đích.

(1) Bao gồm tiêu dùng cuối cùng, tích lũy gộp tài sản.

(2) Trong bảng Vào - Ra liên quốc gia nhu cầu cuối cùng (final demand) và sản phẩm cuối cùng (final products) là khác nhau.

Theo Nguyễn Quang Thái - Bùi Trinh (Thesaigontimes)

* Title bài do Tòa soạn đặt lại

Nguồn Đất Việt: http://datviet.trithuccuocsong.vn/kinh-te/tai-chinh/day-la-dieu-quan-trong-hon-voi-nen-kinh-te-viet-nam-3431854/