Đạo đức cách mạng sáng ngời của Bác Tôn

1. Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888, tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang), trong một gia đình nông dân.

Năm 1906, sau khi tốt nghiệp sơ cấp Tiểu học Đông Dương tại Long Xuyên, Tôn Đức Thắng rời quê hương lên Sài Gòn học nghề thợ máy tại Trường Cơ khí Á Châu (tức Trường Bá nghệ). Sau khi tốt nghiệp, Tôn Đức Thắng được nhận vào làm thợ tại Nhà máy Ba Son của hải quân Pháp ở Sài Gòn, chuyên đóng tàu và sửa chữa tàu biển. Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia tổ chức công nhân bãi công đòi quyền dân sinh dân chủ nên bị chủ Nhà máy Ba Son sa thải, sau đó sang Pháp, làm thợ ở thành phố Toulon. Năm 1914, Tôn Đức Thắng được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn vị hải quân Pháp trên chiến hạm France. Ngày 20-4-1919, trên chiến hạm này, Tôn Đức Thắng tham gia phản chiến, chống lại sự can thiệp của quân đội Pháp tấn công nước Nga Xô viết, kéo cờ đỏ ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga.

Năm 1920, Tôn Đức Thắng về nước xây dựng cơ sở công hội, phát triển mạnh tại Sài Gòn và các vùng công nghiệp lân cận. Những công hội mạnh nhất là Nhà máy Ba Son, Nhà đèn Sài Gòn, Nhà đèn Chợ Quán. Tôn Đức Thắng vận động công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, trì hoãn việc sửa chữa tàu chiến Pháp trên đường sang đánh Trung Quốc…

Cuối năm 1926, đầu năm 1927, đồng chí Tôn Đức Thắng tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội), tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời tham gia Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ của hội. Năm 1929, đồng chí bị địch bắt, kết án 20 năm tù khổ sai và bị đày ra giam tại Côn Đảo với dòng ghi chú trong hồ sơ: “Phần tử nguy hiểm”, bị quản thúc rất chặt, đưa vào hầm xay lúa.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà tù Côn Đảo được giải phóng, đồng chí cùng các tù chính trị được trả tự do. Về đất liền, đồng chí bắt tay ngay vào hoạt động cách mạng ở Nam Bộ, đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Ủy ban Kháng chiến-Hành chính Nam Bộ.

Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946, nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn (nay là TP Hồ Chí Minh) nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng là đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam mới. Năm 1946, đồng chí được điều động về Trung ương công tác; được gặp Bác Hồ tại Hà Nội và trải qua nhiều chức vụ: Trưởng ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phó chủ tịch nước… Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Quốc hội khóa III họp kỳ đặc biệt (tháng 9-1969), nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trên các cương vị được giao, đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, động viên toàn dân tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho đến khi cách mạng giành toàn thắng, đất nước thống nhất.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trần ngày 30-3-1980, tại Hà Nội, thọ 92 tuổi, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với đồng bào, đồng chí.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng với các cháu thiếu nhi. Ảnh tư liệu.

2. Cuộc đời hoạt động của đồng chí Tôn Đức Thắng toát lên đạo đức cách mạng sáng ngời, nhất là tinh thần yêu nước, yêu đồng bào, đồng chí. Nói đến đồng chí là nói đến đạo đức chuẩn mực của một con người đi làm cách mạng, người công nhân chân chính. Đồng chí Tôn Đức Thắng hiểu rõ, muốn yêu nước thì phải đấu tranh chống lại áp bức, bất công xã hội, bằng những hành động cách mạng, đồng thời nhận thức sâu sắc rằng, trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tính dân tộc và tính quốc tế thống nhất với nhau. Chính vì vậy, hành động quốc tế đầu tiên là đồng chí đã giương cao lá cờ đỏ ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga bằng việc phản đối quân đội Pháp chống lại nước Nga cách mạng. Với đồng chí Tôn Đức Thắng, chủ nghĩa yêu nước không chỉ mang tính chất dân tộc, mà còn mang tính chất quốc tế.

Đạo đức cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng thể hiện ở sự lựa chọn ý thức hệ. Đồng chí kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa chân chính. Giá trị đạo đức của đồng chí mang tính giai cấp, còn nảy sinh và hình thành cả những giá trị đạo đức của con người, biểu hiện nhu cầu, lợi ích của các giai cấp tiến bộ, trước hết là ở nhân dân lao động. Đạo đức cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng biểu hiện của sự thống nhất trong việc lựa chọn tư tưởng, chính trị và đường lối, được thể hiện trong tiêu chuẩn đạo đức ở việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí có lòng tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, tinh thần đoàn kết anh em với với tất cả những người lao động và lấy đó làm điểm tựa, chỗ dựa để hành động cách mạng. Sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được chứng minh bởi những hành động đầy thiện chí của đồng chí.

Đạo đức cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng thể hiện ở tác phong quần chúng. Nhớ người xưa, cảnh cũ, có đôi lần Bác Tôn về thăm Nhà máy Ba Son. Khi đến với công nhân, Bác không vào văn phòng ngay mà đi thẳng xuống Phân xưởng Cơ khí, xưởng trung tâm của nhà máy với hơn 300 công nhân, nơi trước đó Bác đã từng làm việc. Bầu không khí thân mật giữa vị Chủ tịch nước với công nhân diễn ra hết sức thân mật và giản dị. Những ngày lễ, ngày nghỉ, Bác Tôn thường về các xóm thợ thăm công nhân; về nơi ruộng đồng thăm nông dân bằng chiếc xe đạp mà Bác đã quen dùng.

Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở nếp sống giản dị, tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đời tư trong sáng và tình thương yêu con người. Bác rất quý trọng những người có đạo đức. Cần, kiệm, liêm, chính còn thể hiện ở tinh thần kiên nhẫn. Bác Tôn rất thấm thía câu nói của Bác Hồ: “Kiên trì và nhẫn nại. Không chịu lùi một phân. Vật chất tuy đau khổ. Không nao núng tinh thần”. (Hồ Chí Minh-Nhật ký trong tù).

“Con người”, hai tiếng ấy luôn vang lên trong lòng Bác Tôn. Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở sự gương mẫu tuyệt đối của bản thân. Nhiều người thấy vị Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng cứ sau giờ làm việc lại đi cuốc đất trồng cây; sửa chữa xe đạp mà Bác dùng nó để đi dạo phố và tập thể dục. Nhiều lúc, Bác ngồi khâu vá quần áo, như một nhà hiền triết làm công việc đời thường. Nhà Bảo tàng tỉnh ở đường Thoại Ngọc Hầu (TP Long Xuyên, tỉnh An Giang) hiện trưng bày chiếc xe đạp cũ, mang biển số đăng ký VR.735. Đó là chiếc xe đạp của Bác Tôn đã mang từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Từ núi rừng Việt Bắc, Bác dùng chiếc xe đạp này để đi công tác và đi họp. Còn ở Hà Nội, Bác dùng để tập thể dục và đi thăm bà con trong những ngày nghỉ. Bác Tôn thích lao động, bởi lao động tạo nên đạo đức trong xã hội. Hơn nữa, với Bác Tôn, tinh thần lao động mang lại niềm vui và niềm tin yêu, hy vọng. Ở Bác Tôn, sự gương mẫu còn thể hiện ở đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, thắm đượm tình người; đối nhân xử thế thật tuyệt vời. Đảng và Nhà nước phân công việc gì, Bác Tôn đều hoàn thành đến nơi đến chốn. Bác ghét thói ganh tị, kèn cựa, địa vị. Bác thường tâm sự với anh em phục vụ: Ở vị trí công việc thấp mà hoàn thành nhiệm vụ còn hơn ở vị trí công việc cao mà không hoàn thành nhiệm vụ.

Đạo đức cách mạng của Bác Tôn còn thể hiện ở mối quan hệ, tình sâu nghĩa nặng, gắn bó keo sơn giữa Bác và Bác Hồ. Trong những năm tháng Đảng chưa ra đời, tuy chưa được gặp Bác Hồ, song, người thợ máy Tôn Đức Thắng đã có cảm tình đặc biệt với đồng chí Nguyễn Ái Quốc qua những bài báo của Người viết trên tờ “Người cùng khổ” (Le Paria), nhất là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Những trang sách, bài báo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã gieo vào lòng người thợ máy Tôn Đức Thắng tình yêu nồng cháy đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Tôn Đức Thắng bị giam cầm ở hầm xay lúa, nhà tù Côn Đảo. Nghe tin cách mạng đang sục sôi trong cả nước, đồng chí cùng anh em cũng rộn lên một không khí giành chính quyền trên đảo, qua chiếc máy thu thanh cũ do tự tay đồng chí sửa chữa lại.

Bác Tôn đến với Bác Hồ vào một ngày nắng đẹp giữa năm 1946, khi Bác Tôn được điều động về công tác tại Trung ương, đóng ở Việt Bắc. Giây phút gặp mặt lịch sử đến, hai Bác ôm chầm lấy nhau trong mừng vui khôn xiết. Một hình ảnh rất đẹp đã đi vào lịch sử. Đó là ngày 19-8-1958, tại Câu lạc bộ Ba Đình, Hà Nội, Bác Hồ đã thay mặt nhân dân và Chính phủ trao tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng, nhân dịp Bác Tôn tròn 70 tuổi. Khi Bác Tôn bước vào nhà, Bác Hồ cũng vừa đến. Hai Bác nắm chặt tay nhau, ôm chầm lấy nhau, nghẹn ngào xúc động. Bác Hồ vui vẻ nói: “Hôm nay, chẳng những chúng ta ở đây mà toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn thể nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình đều vui mừng chúc người lão thành chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng sống lâu, mạnh khỏe".

Thay mặt nhân dân và Chính phủ, Bác Hồ trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao Vàng-Huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Bác Hồ nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Xúc động trước lời tuyên dương của Bác Hồ, Bác Tôn đáp lại bằng những lời lẽ thắm thiết: “Trong buổi lễ vinh quang này, tôi nghĩ đến thời kỳ tôi còn ấu trĩ, đến những lúc khó khăn, hiểm nghèo. Đảng đã dìu dắt, giáo dục tôi, nhân dân đã rèn luyện và giúp đỡ tôi để có được ngày nay… Trong giờ phút cảm động này, tôi không biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để đền đáp công ơn của Đảng, công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ vang và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ”.

Bác Hồ là linh hồn của chính sách đại đoàn kết toàn dân. Bác Tôn là người tiêu biểu cho chính sách đó. Cả hai Bác đều luôn mong muốn cho dân tộc mình, đất nước mình mãi mãi nở hoa độc lập, kết quả tự do.

PGS, TS ĐÀM ĐỨC VƯỢNG

Nguồn QĐND: http://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/dao-duc-cach-mang-sang-ngoi-cua-bac-ton-547067