Đào Chính Nam và chuyến hồi hương của 2000 Việt kiều ở Thượng Hải năm 1946

Sự kiện xảy ra đã 72 năm. Một ngày đầu đông 2017 ở Hà Nội, đã diễn ra cuộc gặp mặt cảm động của anh Đào Đức Thanh (con trai cụ Đào Chính Nam, người tham gia vận động và tổ chức chuyến đi này) với gia đình cụ Nguyễn Văn Bẩm, Đoàn Thị Mỳ -Việt kiều từ Thượng Hải về năm ấy. Đã 98 tuổi cụ bà Đoàn Thị Mỳ khi nghe con cháu nhắc lại sự kiện này thấy sắc mặt rạng rỡ hẳn lên.

Ông Đào Chính Nam.

Ông Đào Chính Nam.

Cuộc hồi hương đặc biệt đầu tiên

Ngày 15/8/1945, Trung Quốc và Nhật ký hiệp định đình chiến. Nghe tin Pháp đang tạo sức ép buộc 2.000 Việt kiều ở Thượng Hải trả cho chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch ở miền Nam Việt Nam, Đào Ngọc Tuấn đang hoạt động ở Trung Quốc viết thư vạch trần âm mưu bắt đồng bào về Nam làm bia đỡ đạn.

Bà con vội mời ông lên Thượng Hải. Tới nơi, ông báo tin, ngày 2/9/1945, Cụ Hồ đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam mới. Ông vận động bà con trở về miền Bắc.

Tổ chức Việt kiều được củng cố. Bà con thêm tin tưởng. Cũng từ đây ông Tuấn lấy tên Đào Chính Nam với nghĩa “người con dòng họ Đào chính là dân đất Việt”.

Tháng 6/1946, Chính phủ ta cử ông Nguyễn Sĩ Túc và ông Thế thay mặt Bộ Ngoại giao sang làm việc với Chính phủ Thượng Hải. Đào Chính Nam tham gia thương thảo.

Tháng 7/1946, con tàu buôn mang tên Hải Xuyên đưa 2.000 bà con hồi hương. Chỉ cần 10 ngày là đến Hải Phòng nhưng tầu phải vào các cảng dọc đường, do sự cản trở của Pháp và chính quyền Trung Quốc.

Ròng rã một tháng, tầu đến Đồ Sơn nhưng Pháp cho tàu chiến ra ngăn cản. Đại diện của ta hội ý rồi cho tàu vào sát chân núi thả neo; mặt khác điện cho Chính phủ. Sau cuộc điều đình từ sáng cho tới 4 giờ chiều, tàu mới được vào cảng Hải Phòng.

Số Việt kiều lên tàu hỏa về Hà Nội và được đón về trường Trưng Vương. Ông Võ Nguyên Giáp cử đặc phái viên Phan Tử Lăng ra đón gần 1000 lính khố xanh, khố đỏ, cảnh sát trong số hồi hương, bổ sung ngay cho các đơn vị Vệ quốc đoàn.

Từ nơi địa đầu Tổ quốc

Dòng họ Đào tuân lệnh Triều đình ra trấn ải vùng đông bắc. Lừng danh nhất là Cai Thể, tham gia Quang phục Hội do cụ Phan Bội Châu chủ xướng. Tháng 1/1918, Cai Thể vận động anh em binh lính yêu nước ở đồn Móng Cái làm binh biến. Công vụ bất thành, cụ bị xử bắn cùng 11 đồng chí của mình tại sân vận động Đông Trì.

Thời gian (1925-1926), cả nước sục sôi phong trào ủng hộ hai cụ Phan. Noi gương ông chú Đào Quang Thể, đầu 1927, Đào Ngọc Tuấn vận động anh em sang Trung Quốc tìm đường cứu nước.

Nhờ giới thiệu, ông về học ở Quân sĩ Giáo đạo đoàn, sau đó được tuyển về Quân sự Hoàng Phố (do cụ Tôn Trung Sơn sáng lập, Chu Ân Lai (sau này là Thủ tướng nước CHND Trung Hoa) là Chính ủy). Trường có cố vấn Liên-xô (Bô-rô-đin) cùng nhiều giáo viên là đảng viên cộng sản Trung Quốc.

Hoạt động ở Trung Quốc

Đào Ngọc Tuấn được gặp cụ Hồ Tùng Mậu, rồi tham gia “Quảng Châu Công xã”. Ông cùng Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Trương Văn Lĩnh... gia nhập “Đảng Thanh niên”.

Hết 3 năm học Quân sự Hoàng Phố, Đào Ngọc Tuấn cùng Trần Văn Phát, Hoàng Nam Thịnh nhờ cụ Đặng Tư Mạc (một nhà Nho yêu nước, bạn cụ Phan) giới thiệu với Kỳ ngoại hầu Cường Để cho qua Nhật học. Chuyện không thành, ông lại nhờ cụ Đặng giới thiệu với cụ Hồ Học Lãm cho đi học Nam Kinh.

Tới Thượng Hải được vài ngày, gặp lúc quân Nhật nổ súng, ông tham gia đánh Nhật trong “Cảm tử đội” của các trường đại học. Sau đó gia nhập Quân đoàn thứ 19 của Thiếu tướng Tư lệnh Thái Đình Khải và làm đội trưởng với tên Đào Bá Long.

Tháng 2/1932, Hiệp định đình chiến Trung-Nhật ký kết, ông lưu lại nhà người bạn học, chờ thời đi Nam Kinh. Bị lộ, cả hai bị mật thám bắt. Biết ông là người Việt, sau 4 tháng tạm giam, chúng tống xuống tàu đưa về Sài Gòn, đưa ra Hải Phòng rồi giam ở Hỏa Lò, Hà Nội.

Mật thám Pháp tra hỏi xem ông quan hệ với ai ở Trung Quốc, ai giới thiệu đi học Hoàng Phố... nhưng thất bại. Chúng đưa ông về giam ở Hải Phòng, Kiến An và cuối cùng là Hải Ninh với án tù 3 năm. Đến tháng 2-1934 mới được tha và bị quản thúc ở Hải Phòng.

Tháng 4/1934, Đào Ngọc Tuấn bí mật xuống tàu đi Hương Cảng rồi vòng về Quảng Đông. Ông viết thư cho Cường Để nhờ giúp đỡ. Qua hai người bạn học Hoàng Phố đang là cán bộ Quân Giải phóng, ông được giới thiệu đi dự lớp huấn luyện cán bộ chỉ huy rồi về đơn vị Kháng Nhật ở thành phố Sán Đầu (Quảng Đông).

Đầu năm 1939, gặp lại Phùng Chí Kiên, ông được giới thiệu vào tổ chức “Thanh niên kháng Nhật Hội” cùng các ông Nguyễn Sơn, Lý Ban… Phùng Chí Kiên giao cho ông giảng dạy quân sự.

Ở Triều An, trong một trận đánh không cân sức, quân Nhật bao vây nửa tháng; ông bị thương vào đầu. Bị bắt, sau 8 tháng giam và điều trị, chúng cho đi học sĩ quan rồi giao làm chỉ huy một đơn vị liên quân. Để giấu tung tích, ông khai tên mình là Đào Nhất Dân. Viên sĩ quan họ Đào chấp hành mệnh lệnh nhưng nung nấu cơ hội chạy về căn cứ Hồng quân Công nông.

Nhờ hội viên Kháng Nhật mà ông liên lạc được với Phùng Chí Kiên. Ông Kiên chỉ thị: tiếp tục hoạt động nội gián! Nhiều lần cung cấp thông tin của địch, bí mật chuyển vũ khí cho phía cách mạng. Có lần lực lượng phá kho vũ khí bị bọn Nhật phát hiện, chạy vào đơn vị. Ông cho thay quần áo, cải trang thành lính đơn vị rồi tạo điều kiện trốn thoát.

Lần khác, quân Nhật tổ chức vây ráp lớn vào chiến khu nhưng thất bại, chúng nghi ngờ ông là nội gián. Tháng 2/1943, ông bí mật đưa đơn vị chạy về chiến khu. Thời gian này, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn hợp tác với Quốc dân Đảng chống Nhật, đơn vị ông nằm trong địa bàn của quân Tưởng nên ông được điều lên Hưng Ninh, biên chế vào Ban Tác chiến Bộ Tham mưu Khu, mang quân hàm “đại hiệu” (ngang đại tá).

Cuối năm 1944, bạn học Hoàng Phố nhận nhiệm vụ thành lập quân khu mới, có mời ông cùng về; nhưng nhận thấy thời kỳ “Quốc - Cộng hợp tác” sắp kết thúc, chuẩn bị nội chiến, nên ông kiên quyết giải ngũ, tìm đường hồi quốc. Vì giao thông ách tắc, ông nằm chờ…

Tham gia vào sự nghiệp cách mạng trong nước

Sau khi hoàn thành chuyến hồi hương, về Hà Nội, Đào Chính Nam gặp người cháu ruột Đào Phúc Lộc (đang là Trưởng phòng Tình báo Quân ủy Hội) và Hồ Ngọc Lan (con gái nhân sĩ cách mạng Hồ Học Lãm). Ông Nguyễn Sơn – Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam - ra họp, được chị Lan báo tin, đã lại thăm và mời về cùng làm việc.

Khi đến Bộ Tư lệnh Tiếp phòng quân của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng thì gặp cụ Hồ Tùng Mậu (Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ). Cụ Mậu giữ lại, giao nhiệm vụ mở lớp Sơ cấp quân sự ở Quần Ngựa cùng Chính ủy Trần Văn Quang.

Năm 1948, ông nhận nhiệm vụ Khu trưởng Phân khu Bình-Trị-Thiên kiêm Phó tư lệnh Khu IV (khi này Nguyễn Sơn là Khu trưởng). Năm 1949, ông được điều ra làm Tư lệnh Quân khu Đông Bắc nhưng vì Trường Quân sự trung, cao Soi Mít (Thái Nguyên) thiếu cán bộ nên ông được điều về làm Phó giám đốc (sau là Giám đốc) với quân hàm đại tá.

Thời gian (1950-1960), ông là Hiệu phó trường Lục quân Việt Nam đóng quân tại Vân Nam, rồi chuyển về Quế Lâm (Trung Quốc); sau đó về nước ở Quần Ngựa, Bạch Mai và Sơn Tây, cùng Thiếu tướng Hiệu trưởng Lê Thiết Hùng (sau 1954 là Lê Trọng Tấn) và Thiếu tướng Chính ủy Trần Tử Bình. Sau đó, ông còn kiêm Cục phó Cục Quân huấn rồi về công tác ở Tổng cục Chính trị đến 1969 thì nghỉ hưu tại Sơn Tây.

Ông mất ngày 8-7 âm lịch năm 1987, tại thị xã Sơn Tây. Suốt 80 năm cuộc đời (1908 – 1987) với 20 năm là chiến sĩ cộng sản quốc tế và hơn 20 năm là cán bộ cao cấp trong quân đội, tên tuổi ông đã làm rạng danh cho lớp người tiên phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông được Hồ Chủ tịch tặng huy hiệu của Người.

Năm 2002, Đào Chính Nam được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng II cùng nhiều huân, huy chương cao quý và được công nhận là Lão thành cách mạng.

Gặp lại những nhân chứng lịch sử

Năm 2017, đúng 20 năm sau ngày ông mất, anh Đào Đức Thanh (con cụ Đào Chính Nam) mới có cơ hội gặp gia đình cụ Nguyễn Văn Bẩm, Đoàn Thị Mỳ trong 2000 bà con Việt kiều hồi hương năm ấy. Cụ Bẩm đã mất, cụ Mỳ năm ấy đã 98 tuổi, không còn tinh tường nhưng vẻ mặt xúc động khi biết có con cháu cùng chuyến tầu Hải Xuyên tới thăm.

Anh con trưởng Vi Khải của cụ nhớ lại: “Các cụ nhà tôi sang Thượng Hải mưu sinh từ năm 1930. Tới 1945 ở Thượng Hải cũng có vài nghìn kiều bào ta.

Xa quê hương, đau đáu nhớ quê mà 2 cụ đặt tên các con khi sinh là “Khải - Hoàn - Vinh - Quang” để dạy các con tình yêu Tổ quốc, “hướng về Tổ quốc ca khúc khải hoàn”.

Khi được cụ Nam vận động hồi hương, các cụ đồng ý ngay. Trên chuyến tầu về nước năm ấy mẹ tôi mang trong bụng em Quang. Còn trong 10 người con của cụ, có em tên Hải Xuyên để kỉ niệm chuyến tầu đã đưa bà con cùng gia đình chúng tôi hồi hương… Sau này biết thêm, chị Hồ Mộ La - con cụ Hồ Học Lãm, cũng đi chuyến tầu đó”.

Đến tháng 4 năm nay, cụ Mỳ đã ra đi ở tuổi 99.

TP HCM, cuối năm 2018

Trần Kiến Quốc

Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/dao-chinh-nam-va-chuyen-hoi-huong-cua-2000-viet-kieuo-thuong-hai-nam-1946-tintuc425538