Dáng mẹ nghiêng theo bước núi đồi

Mỗi năm, khi cái mùa 'ruồi vàng, bọ chó, nắng gió biên cương...' cứ xồng xộc lùa về từ cột mốc, tôi lại nhớ tới những Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên khắp nẻo núi rừng mà tôi đã gặp. Bình lặng một đời, lẻ loi một đời và sống đơn côi cho đến ngày khuất bóng nơi núi rừng xa ngái, chẳng nỗi đau nào giống nỗi đau nào, như cuộc đời của các mẹ khuất lấp giữa bốn bề mây phủ sương giăng.

Xin được viết về các mẹ như một nén tâm hương gửi tới hơn 117 nghìn “bà mẹ nghìn năm của nước non” (thơ Huy Cận).

Bia tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ xã Pú Lung dưới gốc đào cổ thụ.

Bia tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ xã Pú Lung dưới gốc đào cổ thụ.

Sao Tua mênh mang

Năm 2013, qua lời giới thiệu của nhà văn Trầm Hương, chúng tôi tìm gặp Mẹ Việt Nam anh hùng Mùi Thị Dậu giữa đất trời mờ sương nơi bản Mường Sao Tua (xã Tân Hợp, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La), bên dòng Đà giang nước xanh biêng biếc.

Bà mẹ Mường ấy có người con duy nhất là liệt sĩ Mùi Văn Chính. Anh nhập ngũ năm 1966 rồi hi sinh tại chiến trường Mường Sủi, tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Năm 1995 mẹ Mùi Thị Dậu được phong danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng.

Bản nhỏ Sao Tua là miền ký ức trong trẻo của mẹ, là nơi lưu giữ niềm vui lẫn nỗi đau. Chồng mất sớm, một mình nuôi con nhỏ... tôi hình dung người mẹ nơi bản mường xa xôi ấy đã oằn lưng trên cánh đồng cấy lúa, đã thức thâu đêm bên bếp lửa xay lúa, đã dệt từng tấm vải, chắt chiu từng hạt lúa, củ khoai, củ mài nuôi con...

Bên mẹ, chìm trong miền ký ức của mẹ cũng đủ giúp tôi hình dung thêm về người con trai duy nhất ấy trước ngày nhập ngũ đã vội vàng tu sửa nếp sàn, cày tơi thửa ruộng, dặm lại hàng rào trước khi từ biệt mẹ mà đi. Đôi chân trần của anh cùng những trai bản khác lội qua mấy con suối, mấy dòng sông, mấy ngọn núi mới ra đến huyện tòng quân, mới có mặt nơi chiến trường C ác liệt phía Mường Sủi...

Rồi một ngày, tờ giấy báo tử từ chiến trường về Hà Nội rồi ngược chừng ấy đường đất để đến với bản nghèo khuất nẻo Mộc Châu chỉ vỏn vẹn có dòng thông tin “đã hi sinh ở mặt trận phía Tây”. Mặt trận phía Tây là ở đâu?

Từ bản Mường Sao Tua xa xôi, mẹ làm sao biết đất nước mình dài rộng chừng nào, làm sao theo dấu chân con mình trên đường đánh giặc. Mẹ đành chiều chiều ngồi quay sợi ở đầu sàn, mắt dõi về phía Tây để được thấy gần con hơn một chút. Và điều đau lòng hơn cả là chừng ấy năm, mẹ vẫn chưa được gặp lại con mẹ, dù đó là nắm hài cốt được đưa về nghĩa trang... Trong bữa cơm thường ngày, mẹ vẫn dành phần cho con trai.

Mẹ Việt Nam anh hùng Mùi Thị Dậu quay sợi ở quê nhà.

Niềm đau đáu ấy của mẹ đã khởi đầu cho một hành trình khó nhọc, xuyên qua những lớp bụi thời gian, kiên trì, dũng cảm vượt qua 23 nhóm văn bản, với những nhầm lẫn và nhiều vướng mắc khác... Anh Vũ Tiến Quân - Giám đốc khách sạn Công đoàn tỉnh Sơn La là đơn vị nhận phụng dưỡng mẹ kể cho chúng tôi về hành trình ấy với vẻn vẹn mấy chữ trong giấy báo tử và hồ sơ liệt sĩ của Mùi Văn Chính...

“Anh Mùi Văn Chính sinh năm 1946, nhập ngũ tháng 7-1966. Cấp bậc thượng sĩ. Chức vụ trung đội phó, thuộc c6 d2 e174 f316. Anh hi sinh ngày 14-11-1970 khi đi trinh sát cao điểm 1325...”.

Anh Quân đã gặp được những người đồng đội của anh Mùi Văn Chính. Trong số họ, có người quả quyết rằng, tháng 9-1969, anh Mùi Văn Chính hi sinh tại bản Son, cách thị xã Xiêng Khoảng một ngày đường đi bộ... Người đồng đội ấy còn nhớ rất rõ trước khi anh Chính làm nhiệm vụ chiến đấu, ông và anh Chính đã gặp nhau và kể những kỷ niệm về quê hương…

Còn Đại tá Vi Văn Thiện - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư 316 thì cho rằng đã có sự nhầm lẫn giữa hài cốt anh Mùi Văn Chính và anh Nguyễn Trung Chính, giờ đang được đưa về một nghĩa trang ở huyện Gia Lâm, Hà Nội… Sự việc thực sự trở nên nhạy cảm bởi gia đình liệt sĩ Nguyễn Trung Chính quyết không thừa nhận sự nhầm lẫn. Mẹ buồn nhưng lặng phắc không ngỏ cùng ai vì biết gia đình người liệt sĩ kia cũng yêu thương con như mẹ...

Tạm biệt người mẹ Sao Tua, chúng tôi tiếp tục hành trình lên Điện Biên. Không lâu sau, tôi nhận được tin mẹ Mùi Thị Dậu đã mất và được đưa về an táng tại quê nhà. Nơi an nghỉ của gia đình Mẹ Việt Nam anh hùng Mùi Thị Dậu sẽ là địa chỉ đỏ để giáo dục cho các thế hệ trẻ huyện Mộc Châu về truyền thống lịch sử và những đóng góp, hi sinh của Mẹ Việt Nam anh hùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Tôi thầm mong, yên nghỉ giữa lòng đất quê hương, Bà mẹ Việt Nam anh hùng dân tộc Mường ấy sẽ sớm gặp lại con trai, để tiếng pí thui - cây sáo đặc biệt của người Mường thường cất tiếng trong đêm khuya - vỗ về cho những hi sinh của mẹ.

Mẹ Việt Nam anh hùng Lý Khờ Pớ bên bếp lửa vùng biên.

Mẹ cắm lá xanh trên vách trình nâu đỏ

Ở thị trấn vùng biên thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, Mẹ Việt Nam anh hùng Lỳ Khờ Pớ chính là nguồn cảm xúc dâng trào để tôi viết những câu thơ thấm thía trong trường ca Sa Mộc “Hãy hiểu hồn rừng qua chùm lá buộc/ Hãy thấu vía núi qua vạt váy phơi/ Tin dữ về.../ Mẹ cắm cành xanh trên vách trình nâu đỏ/ Xin đừng ai buồn nỗi buồn của mẹ...”. Đó là những ngày đầu mẹ được tin con mẹ, người trai Hà Nhì Lý Hừ Po để lại tuổi thanh xuân trên mặt trận Tây Nam đầu năm 1971.

Khi giấy báo tử của anh Po được cán bộ mang về, mẹ hỏi: “Thế con trai tôi đang nằm ở đâu?”. Không ai trả lời. Mẹ đành tự an ủi: “Nó chẳng thể cô đơn bởi xung quanh còn đồng đội”. Nỗi đau mất con trùm nặng căn nhà đất nhưng vì không muốn bà con trong bản có con đang cầm súng nao núng, mẹ đã cắm một cành cây xanh trước cửa như đồng bào Mông vẫn làm để thông báo với dân bản rằng: “Xin đừng ai buồn nỗi buồn của mẹ. Hãy phấn chấn để động viên chồng con ra mặt trận, giành lại độc lập tự do, trả thù cho người đã khuất...”.

Mẹ bảo, quê mẹ ở bản Lò Ma, xã Ka Lăng, cái vùng đất bé như bàn chân trâu nhưng xa hút tít nơi đầu nguồn con nước sông Đà. Mẹ Pớ sinh được 2 con nhưng chỉ nuôi được mình anh Lý Hừ Po. Lớn lên, chàng trai người Hà Nhì ấy làm đơn xin vào bộ đội.

Trong ký ức mẹ, anh Lý Hừ Po là một chàng trai khỏe mạnh, đẹp trai, vui tính, cởi mở, chịu thương, chịu khó. Anh có yêu một cô gái tên là Hà Pứ nhưng đã dứt khoát tạm dừng chuyện kết đôi để lên đường giữ nước. Khi ấy, nhiều kẻ xấu đã rỉ tai các bà mẹ ở Ka Lăng rằng, người Hà Nhì ở đây yên ổn, có đất đai rộng lớn phì nhiêu, có suối nước trong lành, có rừng đầy hoa trái, sao lại bỏ tổ tiên, bỏ quê hương đi xứ lạ đánh nhau. Đừng ai cho con đi bộ đội, cứ ở nhà sẽ có người mang gạo, muối, vải... đến cho.

Lúc đầu mẹ Lý Khờ Pớ cũng băn khoăn lắm nhưng chứng kiến những cán bộ cách mạng về bản gắn bó cùng nhân dân, nói lời đĩnh đạc, làm việc thẳng ngay chứ không lén lút như kẻ xấu nên mẹ dần yên cái bụng. Không những thế, mẹ Pớ còn vận động bà con trong bản không nghe bọn xấu xúi giục, phải cho con đi bộ đội để đánh đuổi kẻ thù. Thấy mẹ Pớ chỉ có một con trai mà còn dám cho đi cầm súng đánh giặc, vậy là dân bản nghe theo, nhà nào có con trai đều cho con xung phong ra chiến trường.

“Anh hùng đâu cứ chỉ mày râu…”

Xin mượn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu để nói về bà mẹ người Mông can đảm Sùng Thị Blây mà chúng tôi chỉ có thể gặp qua câu chuyện từ người thân của mẹ. Mẹ sinh năm 1901 ở bản Khó Pua (xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu), là niềm tự hào của phụ nữ Mông và con trai mẹ, anh hùng thiếu niên Vừ A Dính...

Mẹ Sùng Thị Blây được Đảng và Nhà nước truy tặng Liệt sĩ ngày 14-10-1964. Mẹ đã được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng đợt đầu tiên (năm 1994) vì có chồng, con ngã xuống cho núi rừng Tây Bắc.

Gặp gỡ gia đình ông Vừ Gà Lử, người con cả của Mẹ Việt Nam anh hùng Sùng Thị Blây.

Con trai cả của mẹ, ông Vừ Gà Lử cũng là một cựu chiến binh chống Pháp và nhiều năm liền làm Chủ tịch UBND xã Pú Nhung, là người duy nhất sống sót trong đại gia đình 10 người bị giặc Pháp thủ tiêu. Khi gặp tôi, ông đã tròm trèm tuổi 90. Trong ký ức của người con, mẹ Sùng Thị Blây có vóc người cao lớn, khỏe đi rừng và miệt mài xe từng sợi lanh, nhuộm màu, dệt vải...

Nhiều đêm thức giấc giữa chừng, ông và các em thấy thật yên tâm khi có bóng mẹ hắt trên vách gỗ, ấy là bởi mẹ đang nghiêng nghiêng bên bếp lửa khâu quần áo cho chồng con. Những khi cả bản thiếu đói, giặc Pháp cắt phân bổ muối, mẹ lại lên rừng tìm lá giang, lá cọ về đun rồi gạn nước để đồ mèn mén.

Đồng chí Hồng Dương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Lai Châu kể lại sự nhiệt tình của mẹ khi nhận nhiệm vụ tiếp tế, mua giấy, bút cho cách mạng. Mỗi lần gùi hàng lên núi cho cán bộ, mẹ phải vượt qua nhiều chốt chặn của địch nhưng không vì thế mà mẹ nao núng. Mỗi lần gùi hàng tiếp tế là một lần mẹ đấu trí với kẻ thù, một lần mẹ miệt mài bám chân trần trên đá sắc để vượt núi, vượt rừng...

Năm 1949, địch càn vào Pú Nhung. Nghi ngờ mẹ tiếp tế cho Việt Minh, chúng bắt mẹ cùng bố chồng và 7 người con gồm chị gái và các em của Vừ A Dính mang về giam và bắt làm phu dịch tại đồn Bản Chăn.

Ông Vừ Gà Lử kể lại: “Rất may hôm ấy tôi lên núi nên không bị bắt. Còn em Vừ A Dính được đơn vị phái xuống tìm cách liên lạc và nắm tình hình địch để chuẩn bị cho bộ đội đánh đồn. Khi nắm được tin giặc Pháp chuẩn bị đưa quân lên đánh khu du kích ở Pú Nhung, mẹ trốn trại ra bìa rừng gặp Vừ A Dính, cấp báo tin này. Mẹ còn chuyển cho Vừ A Dính hơn 100 viên đạn lấy được của giặc.

Trên đường trở về trại giam, một tốp lính đi tuần phát hiện ra mẹ. Không tìm thấy gì nhưng chúng vẫn nghi mẹ liên lạc với Việt Minh nên đã khám nơi giam cầm mẹ và phát hiện ra nhiều đạn mà mẹ và mọi người đã lấy trước đó. Giặc Pháp đã lôi cả 22 người trong trại giam ra bắn, trong đó có ông nội, mẹ, chị gái và các em tôi... Sau đó không lâu, em Vừ A Dính cũng bị giặc bắt, còn bố Vừ Chống Lầu, bị tra tấn đến chết trong nhà ngục Lai Châu”.

Người già ở Pú Nhung thì kể cho con cháu nghe về người anh hùng thiếu niên của dân tộc mình giản dị thế này: Lúc còn nhỏ, Vừ A Dính đã xung phong được đi canh gác như các anh chị lớn. 13 tuổi, Dính thoát li gia đình, trở thành đội viên liên lạc của đội vũ trang huyện Tuần Giáo, hoạt động trên địa bàn từ châu Điện Biên ra châu Tuần Giáo rồi ngược lên châu Tủa Chùa. Cái chân đã quen rừng thạo núi nên lần nào nhận nhiệm vụ, Dính cũng hoàn thành trước thời hạn và đảm bảo an toàn.

Một hôm, vừa đi công tác về, bị địch vây bắt, đánh đập dã man, bắt chỉ đường đến chỗ cán bộ và đồng bào. Vừ A Dính bày mưu bắt chúng làm cáng khiêng anh đi một ngày đường rồi lại trở về cây đào là nơi xuất phát mà chẳng tìm được gì. Tức giận, giặc treo Vừ A Dính lên cành đào rồi bắn chết. Vừ A Dính hi sinh khi vừa tròn 15 tuổi.

Câu chuyện về người thiếu niên anh hùng ấy đã được truyền đi khắp các bản làng Tây Bắc, trở thành động lực soi đường cho thanh niên, trai tráng người Xá, người Thái, người Mông khắp vùng tìm đến cách mạng, tìm đến con đường giải phóng cho toàn dân tộc.

Tạm xa núi rừng biên viễn, tôi cứ luôn ám ảnh bởi bước chân của mẹ Dậu, mẹ Pớ trên con đường bằng phẳng của những thôn, bản đang vươn lên trong quá trình nông thôn mới. Vậy mà dáng mẹ cứ tấp tểnh, gò lưng xuống mà đi như đang đi đường núi vậy. Các mẹ bảo đi đường rừng quen rồi, giờ đi đường bằng thấy nó cứ sao sao, chung chiêng thế nào.

Tôi nghe mà chạnh lòng khi nghĩ đến những người phụ nữ vùng cao như các mẹ, cái dáng đi cả đời tất bật, cứ con cón cắm mặt xuống đất và lao bổ về phía trước để giữ thăng bằng khi lên dốc. Vậy mà các mẹ, những người phụ nữ bình dị cả đời không bước chân ra khỏi bản nghèo ấy đã dâng hiến biết bao đứa con của mình cho đất nước.

Phạm Vân Anh

Nguồn ANTG: http://antg.cand.com.vn/phong-su/dang-me-nghieng-theo-buoc-nui-doi-555615/