Đại học Quốc gia Hà Nội duy trì vị thế các lĩnh vực khoa học mũi nhọn
Sáng 23/3, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) vừa công bố kết quả bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới. Bảng xếp hạng theo 54 lĩnh vực thuộc 5 nhóm lĩnh vực của 1.594 cơ sở giáo dục đại học thuộc 85 khu vực với khoảng 18.300 chương trình đào tạo.
Trong Bảng xếp hạng QS thế giới theo lĩnh vực năm 2023 (QS WUR by subject 2023), Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục duy trì vị thế tại 6 lĩnh vực mũi nhọn.
Trong đó, lĩnh vực Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin (Computer Science & Information Systems) xếp hạng 501-550; Toán học (Mathematics) xếp hạng 351-400; Cơ kỹ thuật, hàng không và chế tạo, xếp hạng 501-520 thế giới; Kỹ thuật điện và điện tử, xếp hạng 501-520 thế giới; Vật lý và Thiên văn học, xếp hạng 551-600 thế giới; Kinh doanh và Khoa học quản lý, xếp hạng 501-550 thế giới. Cũng trong 6 lĩnh vực này, Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục duy trì vị thế số một Việt Nam tại 2 lĩnh vực là Vật lý và Thiên văn học (Physics & Astronomy) và Kinh doanh và Khoa học quản lý (Business & Management Studies).
Ngoài ra, có 2 nhóm lĩnh vực của Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục được xếp hạng là: Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering & Technology) xếp hạng 451-500 thế giới và Khoa học Tự nhiên (Natural Sciences) xếp hạng 451-500 thế giới.
Trong đó, nhóm lĩnh vực Khoa học Tự nhiên được xếp số một tại Việt Nam.
Bảng xếp hạng QS WUR by subject 2023 được xây dựng dựa trên 5 tiêu chí bao gồm: Uy tín học thuật (Academic Reputation); Uy tín tuyển dụng (Employer Reputation); Tỷ lệ trích dẫn trung bình trên một bài báo (Citations per paper); Chỉ số H-index đo lường năng suất và mức độ tác động của các công bố khoa học của đội ngũ giảng viên; Mạng lưới nghiên cứu quốc tế (International Research Network).
Các tiêu chí xếp hạng của QS nhấn mạnh vào đóng góp và tác động chất lượng đào tạo của một ngành, lĩnh vực đào tạo đối với xã hội (thông qua đánh giá của học giả và nhà tuyển dụng); các đóng góp cho hoạt động nghiên cứu khoa học (thông qua mức độ trích dẫn và chỉ số H-index) và khả năng quốc tế hóa trong nghiên cứu khoa học (thông qua mạng lưới nghiên cứu quốc tế).