Đã đến lúc chứng tỏ Việt Nam xuất sắc trong kinh tế

Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thế giới về chống dịch Covid-19. Đã đến lúc chứng tỏ Việt Nam cũng xuất sắc như vậy trong giải quyết các thách thức kinh tế, TS Chang-Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam.

- Nền kinh tế thế giới đang bj đóng băng bởi đại dịch Covid-19. Việt Nam là nước phụ thuộc rất lớn vào thương mại toàn cầu, vì vậy kinh tế và thị trường lao động của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn so với nhiều quốc gia khác, có phải vậy không thưa ông?

TS Chang-Hee Lee: Chúng ta chưa có số liệu cập nhật chính xác về thương mại của Việt Nam. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, khối lượng thương mại toàn cầu năm 2020 dự kiến sẽ giảm từ 13% đến 32%.

Số liệu báo cáo về thương mại quý I của Việt Nam không quá tệ, xuất khẩu tăng 0,5%, nhập khẩu giảm 2% và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 8,55 tỷ đô la Mỹ. Nhưng đến cuối tháng 4 này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn tác động toàn diện của đại dịch COVID-19 đối với thương mại và đầu tư.

Đã có những dấu hiệu cho thấy tình hình trong quý II sẽ tệ hơn nhiều, chẳng hạn, không còn khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, nhu cầu hàng hóa Việt Nam trên thị trường xuất khẩu giảm mạnh do hầu hết các nước đối tác thương mại đều đang áp dụng các biện pháp phong tỏa.

Cuộc khủng hoảng y tế - kinh tế toàn cầu đang diễn ra nghiêm trọng ở chỗ nó tác động đến cả phía cung và cầu.

Biện pháp phong tỏa được áp dụng rộng khắp ảnh hưởng nặng nề đến phía cung do nhiều nhà máy phải tạm ngừng hoạt động và đối với phía cầu do người tiêu dùng ở Hoa Kỳ và Châu Âu phải ở nhà.

Vấn đề là Việt Nam phụ thuộc lớn vào thương mại toàn cầu. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng cả doanh nghiệp và người lao động tại Việt Nam sẽ cảm nhận được rõ ràng và sâu sắc hơn nhiều những tác động của một nền thương mại toàn cầu đang bị thu hẹp lại.

"Đã đến lúc chứng tỏ Việt Nam cũng xuất sắc trong giải quyết thách thức kinh tế" - TS Chang-Hee Lee.

"Đã đến lúc chứng tỏ Việt Nam cũng xuất sắc trong giải quyết thách thức kinh tế" - TS Chang-Hee Lee.

Điều đó không có nghĩa là chiến lược hội nhập toàn cầu của Việt Nam đã không đúng. Ngược lại, chiến lược này đã được chứng minh là động lực tăng trưởng kinh tế chính cho câu chuyện phát triển thành công của Việt Nam. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU sẽ mang đến cơ hội lớn, đặc biệt là cho công cuộc phục hồi nhanh hơn sau đại dịch Covid-19.

Nhưng khi thiết kế các chiến lược phát triển hậu Covid-19, Chính phủ có thể phải tính đến cách làm thế nào để các chuỗi cung ứng toàn cầu có khả năng chống chịu tốt hơn và làm thế nào để mở rộng các thị trường tiêu dùng trong nước, làm thế nào để hỗ trợ các ngành công nghiệp dịch vụ trong nước và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng linh hoạt hơn, có sức chống chịu cao hơn.

Họ không chỉ có vai trò cực kỳ quan trọng trong thời kỳ gia tăng khủng khoảng kinh tế do Covid19, khi nhu cầu toàn cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng do sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng toàn cầu, mà còn đóng vai trò quan trọng trong mô hình tăng trưởng dài hạn hậu Covid-19.

- Thế còn đối với các lĩnh vực dịch vụ trong nước, những doanh nghiệp tư nhân trong nước, các cơ sở kinh doanh gia đình và nông hộ không trực tiếp liên kết với các chuỗi cung ứng toàn cầu thì sao, thưa ông?

Cùng với các khu vực quốc doanh, các doanh nghiệp siêu nhỏ, cơ sở kinh doanh gia đình và nông hộ chính là loại hình kinh tế đã hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ. Họ có thể cung cấp chỗ dừng chân tạm thời cho những người lao động bị mất việc, phải trở về quê nhà, với làng quê. Họ là nguồn lực truyền thống giúp xã hội có khả năng chống chịu, và không may thay, họ sẽ lại phải một lần nữa thể hiện vai trò truyền thống này trong thời kỳ đỉnh điểm của khủng hoảng do Covid-19 gây nên.

Vấn đề là phạm vi và tốc độ khủng hoảng việc làm do đại dịch Covid-19 gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với khả năng gánh vác của hộ kinh doanh gia đình và nông hộ.

Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ có tính mục tiêu thông qua các dạng thức khác nhau để người dân có thể vượt qua những thời điểm khó khăn nhất của khủng hoảng cho tới khi tình hình dần trở lại bình thường.

Những hình thức “giãn cách xã hội” nghiêm ngặt có lẽ cần phải dần được nới lỏng để các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ gia đình có thể cung cấp nguồn sống cho con người, cho khả năng chống chịu và bình ổn. Tất nhiên, đó cần phải là “kinh doanh an toàn và lành mạnh” dưới sự chỉ dẫn rõ ràng về cách áp dụng giãn cách xã hội trong các hoạt động kinh doanh.

Tôi nghĩ, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc này thông qua mạng lưới các hợp tác xã ở thành thị và khu vực nông thôn.

Về lâu dài, vấn đề quan trọng mang tính chiến lược là cần chính thức hóa các doanh nghiệp phi chính thức để mở rộng cơ sở tiêu dùng trong nước và hỗ trợ lĩnh vực dịch vụ trong nước.

Một đất nước với gần 100 triệu dân cần xây dựng các thị trường nội địa thực chất do các doanh nghiệp trong nước dẫn dắt, đây là một trong những chiến lược hiệu quả nhất để giúp nền kinh tế Việt Nam có khả năng chống chịu với những cú sốc bên ngoài.

Công cuộc chính thức hóa đi kèm với nhiều biện pháp bảo trợ xã hội khác nhau sẽ giúp xã hội Việt Nam có khả năng chống chịu tốt hơn trước những khủng hoảng y tế toàn cầu tương tự có thể xảy ra trong tương lai.

- Theo ông, những nhóm đối tượng nào trong thị trường lao động Việt Nam được xét là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong tình hình hiện nay?

Các nhóm dễ bị tổn thương nhất gồm: người lao động làm công việc phi chính thức, lao động di cư và phụ nữ. Nhu cầu của họ cần phải được coi là vấn đề ưu tiên và cấp bách cần giải quyết.

Mặc dù tỷ lệ phi chính thức ở Việt Nam đã giảm, hơn 70% dân số có việc làm (bao gồm cả các việc làm nông nghiệp) vẫn đang làm các công việc phi chính thức. Phần đông những lao động này không được hưởng các hình thức bảo vệ cơ bản như khi làm những công việc chính thức, cụ thể là chế độ bảo vệ thu nhập, nghỉ ốm và chăm sóc y tế.

Trong cuộc khủng hoảng Covid19, họ có thể buộc phải tiếp tục làm việc hay không muốn tự cách ly khi cần, như vậy, họ tự đặt sức khỏe của bản thân vào tình thế nguy hiểm và có nguy cơ lây nhiễm cho thêm nhiều người.

Mọi người xếp hàng cách nhau 2 m, tuân thủ trật tự để đợi đến lượt để nhận gạo ATM ở Đà Nẵng. Ảnh: VietNamNet

Đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất là lao động tự làm, lao động phi chính thức làm việc trong các lĩnh vực bị tác động nặng nề nhất, lao động giúp việc gia đình và lao động trong nền kinh tế gig (nền kinh tế việc làm tự do).

Trong khi đó, lao động di cư trong nước, lực lượng chiếm 13,6% tổng dân số, thường làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức không có hợp đồng làm việc và không được tiếp cận với các chế độ bảo trợ xã hội. Lao động di cư trong nước thường làm việc trong những lĩnh vực bị khủng hoảng việc làm nặng nề nhất.

Bên cạnh đó, phụ nữ là đối tượng phải chịu gánh nặng của cuộc khủng hoảng lần này. Như tôi đã đề cập, bốn lĩnh vực Tổ chức lao động quốc tế (ILO) xác định có nguy cơ bị ảnh hưởng lớn nhất là dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, thương mại bán buôn và bán lẻ, bất động sản và hoạt động kinh doanh hiện đang sử dụng 44,1% lao động nữ ở Việt Nam, trong khi tỷ lệ này đối với lao động nam chỉ là 30,4%.

Phụ nữ cũng là lực lượng đảm nhiệm các công việc chăm sóc ở tuyến đầu. Họ chiếm phần đông trong số hai triệu lao động gia đình không được trả lương. Đa phần họ là những người chăm sóc chính cho con cái và cha mẹ già. Họ cũng chiếm số đông trong các công việc thuộc các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất (dệt may, giúp việc gia đình). Chính vì vậy, rất cần thiết phải đảm bảo cách có tính đến yếu tố giới trong các phản ứng chính sách.

Thêm vào đó, trẻ em cũng có thể bị ảnh hưởng do bố mẹ mất việc làm hay bị cắt giảm thu nhập. Khi xảy ra khủng hoảng, tình trạng bỏ học, suy dinh dưỡng, bóc lột lao động và lao động trẻ em có thể gia tăng nghiêm trọng dẫn đến những hệ quả lâu dài và không thể đảo ngược được đối với công cuộc phát triển nguồn lực con người.

- Như ông đã chỉ ra, nhiều người lao động dễ bị tổn thương ít được tiếp cận với các chế độ bảo trợ xã hội trong đó có bảo hiểm y tế. Ông đánh giá thế nào về những hành động của Chính phủ Việt Nam liên quan đến bảo hiểm y tế?

Đảm bảo việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế với chi phí phải chăng là vấn đề quan trọng trước hết để tránh tình trạng khiến người dân không tìm đến dịch vụ chăm sóc, xét nghiệm và được hưởng điều trị cần thiết nếu họ không thuộc diện được bảo hiểm.

Đây là vấn đề thiết yếu để bảo toàn tính mạng và kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh. Bảo vệ sức khỏe về khía cạnh tài chính cũng rất cần thiết để ngăn ngừa tình trạng bần cùng hóa của các cá nhân và hộ gia đình do phải bỏ tiền túi chi trả các chi phí chăm sóc y tế trực tiếp.

Không chỉ liên quan đến vấn đề tài chính mà cũng cần thiết phải đảm bảo tiếp cận dịch vụ chăm sóc theo khu vực địa lý, đặc biệt là đối với những người ở khu vực nông thôn.

Hiện 90% dân số đã thuộc diện bao phủ của hệ thống Bảo hiểm Y tế của Việt Nam và người tham gia chỉ phải trả tối đa 20% chi phí (theo quy định của bảo hiểm y tế). Những người dễ bị tổn thương, trẻ em dưới 6 tuổi được miễn đóng bảo hiểm y tế và cơ chế cùng chi trả.

Tuy nhiên, 90% dân số đồng nghĩa với việc còn khoảng 10 triệu người không thuộc diện bao phủ của bảo hiểm y tế. Để bảo vệ mọi công dân, cần cân nhắc tạm thời triển khai bảo hiểm y tế toàn dân dù người dân có đang tham gia bảo hiểm y tế hay không và miễn cơ chế cùng chi trả cho tất cả mọi người.

Như vậy, sẽ góp phần khuyến khích việc tiếp cận dịch vụ y tế và hỗ trợ công tác phát hiện sớm, giảm nguy cơ lây lan của virus và giảm các ca bệnh diễn biến nghiêm trọng do điều trị chậm trễ.

- Tựu chung lại, đã có nhiều người lao động ở Việt Nam bị mất việc làm bởi đại dịch Covid-19. Chúng ta cần phải làm gì để giải quyết tình trạng này?

Chúng ta vẫn chưa biết được chính xác mức độ khủng hoảng việc làm do chưa có kết quả điều tra lao động việc làm mới nhất tại thời điểm này.

Nhưng đã có những dấu hiệu không tốt như dự báo hơn hai triệu lao động cả nước có nguy cơ bị ảnh hưởng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chắc chắn là chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng việc làm lớn mà tất cả mọi thành phần, không chỉ có Chính phủ mà cả doanh nghiệp, công đoàn và người lao động, phải phối hợp với nhau để giảm thiểu những tác động do khủng hoảng gây nên.

Dự báo hơn hai triệu lao động cả nước có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Ảnh: VietNamNet

Các doanh nghiệp khác nhau thì lại có những cái khó khác nhau. Có những doanh nghiệp không thể tồn tại được do năng suất và khả năng cạnh tranh thấp dù có xảy ra khủng hoảng do Covid-19 hay không.

Nhưng cũng có những doanh nghiệp khỏe mạnh trong điều kiện bình thường và có thể tồn tại lâu nếu họ nhận được sự hỗ trợ khi khủng hoảng do dịch bệnh tăng đỉnh điểm nhằm nút lại lỗ hổng về tiền mặt, nguyên liệu thô và sự sụt giảm đột ngột trong nhu cầu và đơn hàng.

Điều đó có nghĩa là hỗ trợ của Chính phủ cần nhắm tới các doanh nghiệp có triển vọng tích cực do họ hoạt động năng suất và đổi mới sáng tạo nhưng phải đối mặt với khủng hoảng tạm thời. Chính phủ nên đưa các doanh nghiệp này vào diện đối tượng mục tiêu của các gói hỗ trợ.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh, Chính phủ nên hướng sự hỗ trợ và các gói trợ giúp tới các doanh nghiệp nỗ lực nhất trong việc giữ người lao động và giảm thiểu mức độ sa thải bằng các biện pháp điều chỉnh thời giờ làm việc, chia sẻ công việc, đào tạo tại chỗ, giảm lương có sự tham khảo ý kiến của công đoàn và người lao động.

Làm như vậy sẽ khuyến khích doanh nghiệp nỗ lực hết mình trong việc giữ người lao động và giảm thiểu mức độ sa thải. Từ đó làm chậm quá trình sa thải, giảm thiểu cú sốc đối với xã hội mà khủng hoảng gây nên trong khi vẫn duy trì được năng suất của người lao động cho công cuộc phục hồi nhanh hơn hậu Covid19.

Về khía cạnh này, tôi tin rằng điều quan trọng là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phối hợp với nhau cùng ban hành hướng dẫn cho người sử dụng lao động và công đoàn trong việc quản lý khủng hoảng việc làm.

- Ông có thể đưa ra lời khuyên về một khung chính sách hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam để đối phó với đại dịch?

Tôi đánh giá cao việc Việt Nam đã bắt đầu đưa ra và triển khai các gói chính sách kích thích nề kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập. Chắc chắn, có thể có những lĩnh vực có thể làm tốt hơn.

Tôi tin rằng gói hỗ trợ thông qua Nghị quyết mới của Chính phủ nhìn chung phù hợp với những khuyến nghị ILO đã đưa ra ở cấp độ toàn cầu đối với các phản ứng chính sách trên diện rộng và đồng bộ để đối phó với COVID-19 bao gồm: 1) kích thích nền kinh tế và việc làm, 2) hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập, 3) bảo vệ người lao động tại nơi làm việc.

Khung chính sách đó sẽ giúp tăng cường khả năng hồi phục hậu Covid19 bằng việc giảm thiểu những tác động tiêu cực lên con người cũng như tiềm năng phát triển kinh tế của tương lai.

Tôi có ba điểm muốn nhấn mạnh.

Thứ nhất, trong tình hình hiện tại, doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ phải cho thêm nhiều người lao động nghỉ việc – điều mà chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy. Nếu không có biện pháp kiềm chế, điều này sẽ làm trầm trọng cuộc khủng hoảng xã hội, dẫn tới cả hệ thống đi xuống.

Điều quan trọng cần làm là tập trung duy trì việc làm, bằng cách hướng những hỗ trợ của Chính phủ tới những doanh nghiệp có thực hiện các biện pháp để giữ người lao động và bảo vệ sức khỏe của người lao động bằng các hình thức phân công công việc đảm bảo sức khỏe.

Điều đó giúp làm chậm lại và giảm thiểu cú sốc từ khủng hoảng việc làm. Để làm được, cần phải tổ chức đối thoại xã hội giữa doanh nghiệp và người lao động, và giữa cả hai bên với Chính phủ để tìm được hướng điều chỉnh dần dần đối với việc làm, số giờ làm việc và tiền lương, dựa trên cơ sở đồng thuận.

Đối thoại xã hội có thể tạo ra niềm tin và sự tín nhiệm vào chính sách và các biện pháp mà Chính phủ và doanh nghiệp thực hiện nhằm giảm thiểu khả năng dẫn tới bất ổn xã hội. Điều đó sẽ giúp nền kinh tế hồi phục khi Covid19 được khống chế.

Về phương diện này, Việt Nam đã có một số sáng kiến hay, chẳng hạn như những gì Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng vừa thực hiện.

Tôi muốn nói thêm về mối liên quan giữa giữ việc làm, kinh doanh an toàn và thúc đẩy các ngành dịch vụ. Chẳng hạn, việc luân phiên lực lượng lao động theo ngày có thể vừa giúp giữ người lao động vừa thực hiện giãn cách xã hội. Hoặc nhà máy có thể chia ca làm việc, một số người lao động bắt đầu từ 7 giờ sáng, một số khác lúc 11 giờ trưa, và tốp còn lại bắt đầu lúc 3 giờ chiều.

Cách đó có thể đảm bảo giãn cách xã hội không chỉ trong phạm vi nhà máy mà còn cả ở ngoài phố nữa, do người lao động cần di chuyển đến và đi từ nơi làm việc. Nó cũng tạo tác động tích cực, chẳng hạn đối với các ngành dịch vụ, bởi vì người lao động có thể đến nhà hàng, quán ăn, siêu thị, cửa hàng tạp hóa, trong các khung thời gian khác nhau phù hợp với thời gian làm việc của họ, nên có thể giúp tăng số lượng khách hàng và duy trì giãn cách xã hội ở các địa điểm đó.

Như vậy, giúp đảm bảo kinh doanh an toàn, giữ việc làm và thúc đẩy tiêu dùng nội địa đồng thời.

Thứ hai, cần giảm thiểu tác động của các biện pháp kiềm chế dịch bệnh tới các doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia đình, nông hộ và khu vực nông nghiệp - nông thôn. Đó chính là những loại hình kinh tế đã giúp Việt Nam vượt qua thời kỳ chiến tranh và các cuộc khủng hoảng kinh tế trong quá khứ.

Tuy nhiên, đại dịch hiện tại và các biện pháp giãn cách xã hội đang ảnh hưởng lớn tới khả năng khu vực kinh tế này đối phó với cú sốc kinh tế xã hội.

Trong trường hợp sụt giảm mạnh nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, hoặc chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gẫy, thì chính hàng triệu doanh nghiệp siêu nhỏ, đơn vị kinh doanh hộ gia đình và khu vực nông nghiệp - nông thôn mang lại sự hỗ trợ thay thế.

Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tạo điều kiện để họ phát huy vai trò của mình trong giai đoạn quan trọng này, với sự hỗ trợ của Chính phủ.

Thứ ba, bảo trợ xã hội cần được tiếp tục đóng vai trò ưu tiên trong các gói hỗ trợ kích thích, bao gồm cả các gói hỗ trợ trong tương lai, để củng cố các biện pháp đã được thực hiện nhằm bảo vệ người dân và sinh kế của họ.

Giờ chính là lúc chúng ta cần có cách tiếp cận cân bằng để đối phó với cuộc khủng hoảng kép này.

Về phương diện sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã thể hiện là một trong những nước đi đầu trên thế giới. Đã đến lúc chứng tỏ Việt Nam cũng xuất sắc như vậy trong giải quyết các thách thức về kinh tế, xã hội, và thị trường lao động.

Tôi có niềm tin lớn rằng Việt Nam sẽ làm được.

Lan Anhlược thuật

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/da-den-luc-chung-to-viet-nam-cung-xuat-sac-trong-giai-quyet-thach-thuc-kinh-te-634751.html