Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tôi đã đọc một mạch cuốn nhật ký chiến trường của nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý (1941 - 1969) suốt mấy giờ đồng hồ. Một tình yêu đất nước mãnh liệt, một tinh thần thép, niềm say mê đi và viết... được nữ nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý... gói ghém qua những trang nhật ký. Đến với cuốn nhật ký chúng ta sẽ được bồi đắp tâm hồn, để sống có trách nhiệm hơn với quê hương, đất nước.
Cầm trên tay cuốn nhật ký chiến trường của nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý (Nxb Văn nghệ, 2007), nhìn bức ảnh của chị ở lứa tuổi căng tràn nhựa sống, đọc những dòng tâm sự của nhà thơ Bùi Minh Quốc (chồng của nhà báo, nhà văn Xuân Quý), tôi thấy nghèn nghẹn. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết: “Thế là thế nào? Đói khổ. Đạn bom. Chết chóc. Chia lìa. Hàng ngày. Hàng giờ. Cuộc sống chúng tôi những năm tháng ấy là thế. Mà sao lại có thể hát lên: “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao...”? Hẳn có bạn sẽ hỏi vậy. Tôi chẳng biết. Các nhà nghiên cứu sẽ cắt nghĩa vì sao. Còn tôi, tôi chỉ biết tâm trạng của chúng tôi thời đó là thế. Không thế thì không sống nổi. Thế hệ chúng tôi còn có sự lựa chọn nào khác hơn là chọn niềm vui trong sự dấn thân vì đại nghĩa của dân tộc và con người?”.
Đọc cuốn nhật ký, chúng ta sẽ thấy nhà báo, nhà văn Xuân Quý đã sống, suy nghĩ, làm việc thế nào, trong một hoàn cảnh gian khó, hiểm nguy thế nào, từ ngày chị rời thủ đô Hà Nội đến khi rời căn cứ A7 miền Tây Quảng Nam đi chuyến công tác đầu tiên, và cũng là cuối cùng xuống chiến trường đồng bằng. Dương Thị Xuân Quý là phóng viên của báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1961 - 1968. Chị đã viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Trong đơn, nữ nhà báo đã viết: “Nguyện vọng tha thiết nhất của tôi là được xông vào những nơi chiến đấu ác liệt nhất để chiến đấu cho lý tưởng vinh quang của mình bằng tất cả sức lực và trí tuệ cao độ nhất. Xin các đồng chí hiểu cho tôi! Đã từ lâu tôi mong ước vô cùng được vào miền Nam chiến đấu...”.

Tháng 4/1968, chị Xuân Quý đã cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào Nam khi con gái mới 16 tháng tuổi, và chồng chị - nhà thơ Bùi Minh Quốc đã có mặt ở chiến trường miền Nam trước đó 1 năm. Trên đường vào Nam, chị nhớ chồng, nhớ con gái đến cồn cào, và chính lý tưởng cách mạng, tình yêu dành cho chồng con là sức mạnh để chị vượt qua khó khăn, gian khổ mà tưởng chừng không gì vất vả hơn thế. Mặc cho bom rơi và máy bay của giặc Mỹ quần thảo trên bầu trời, đoàn quân vẫn bước đi giữa rừng núi bạt ngàn, vẫn thấy đẹp làm sao những cánh rừng mà cây nào cũng thẳng tắp, vút lên trời cao, nắng xuyên qua kẽ lá. Chị Xuân Quý ví những chiếc máy bay của giặc Mỹ trong đêm - những chấm vàng lao vun vút, qua các kẽ lá trông chúng nó như những con đom đóm chạy vội vàng. “Chẳng sao, chúng nó không thể làm giảm được vẻ đẹp của rừng trong đêm trăng”.
“30/4/1968, trạm 21, Trường Sơn, 6g15 chiều... Đây là trạm cuối của chiến trường A... Thôi chào miền Bắc thân thương. Chào Ly yêu dấu và nhiều hy sinh của mẹ. Hãy tha thứ cho mẹ con nhé. Mẹ sẽ đem Hạnh phúc tới cho con”. Hai tiếng “hạnh phúc” mà chị Xuân Quý nhắc đến khiến chúng ta nghẹn ngào, đó là hạnh phúc của độc lập, tự do, chị đã gác lại niềm hạnh phúc của riêng mình vì hạnh phúc chung của toàn dân tộc. “20/6/1968, trạm 11, Quảng Nam, 4g30 chiều. Hai hôm nay đi một cách khó nhọc. Hành kinh. Người mình nặng trĩu, mình thường lấy lúc các anh nghỉ giải lao để mình đi vượt lên. Mình đi chậm nhích từng chút một, nghỉ rất ít. Cứ thế, một mình lững thững đi giữa rừng bạt ngàn, chân nứt, lội xuống suối lại buốt và xót thấu ruột. Hai hôm nay lội suối khá nhiều, những con suối rộng mênh mông đáy vàng sỏi đá và bên bờ là những rặng cây rủ bóng mát xuống những tảng đá đen trùi trũi trồi lên. Đi trong rừng nghe suối hát và ngồi nghỉ ăn cơm trên những tảng đá ven suối sao mà thích thế. Thỉnh thoảng những con đường rắc đầy hoa lại hiện ra... Hoa, hoa... và lá rừng xạc xào...”.
"
"Sống giữa không khí mặt trận. Đầy nguy hiểm nhưng cảm giác của mình là say mê và thú vị. Biết là nguy hiểm lắm nhưng sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh. Đời người ai chả chết...”.
Trích nhật ký của nhà báo, nhà văn XUÂN QUÝ
Sau nhiều tháng vượt Trường Sơn, tháng 7/1968, chị Xuân Quý đã đặt chân đến Chi hội Văn nghệ Trung Trung Bộ đóng tại Quảng Nam và đã gặp chồng là anh Bùi Minh Quốc. Họ đã gặp nhau trong niềm hạnh phúc vô bờ, và đã cùng nhau trải qua những hy sinh, gian khổ của cuộc chiến. Những trận B52 liên tiếp dội xuống, chị nhiều lần thoát chết. Những lần đi gùi gạo, chưa bao giờ cõng nặng đến vậy, thế mà chị vẫn cố gắng... Những trận sốt rét rừng, những bữa ăn chỉ có rau rừng, thiếu gạo, thiếu muối... Dẫu vậy, những người lính vẫn kiên cường chiến đấu, những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng vẫn tràn đầy nhiệt huyết và say mê sáng tác. “30/7/1968... Thực sự mình vẫn chưa thấy gì là khổ sở, chưa thấy tư tưởng bị dao động vì những nỗi cực nhọc ở đây. Trái lại, mình bắt đầu thấy yêu tha thiết cái khúc ruột miền Trung mà mình đang sống này”, “9/8/1968. Ly của mẹ, mẹ báo một tin để con mừng nữa là ngày hôm nay mẹ bắt đầu làm người lính chính thức của Tiểu ban Văn nghệ rồi”.
Đêm 8/3/1969, chị Xuân Quý hy sinh vì trúng đạn của lính Nam Triều Tiên trong một trận càn tại Duy Xuyên (Quảng Nam). Chị đã vĩnh viễn nằm lại nơi mảnh đất này cùng với tuổi thanh xuân, cháy bỏng tình yêu Tổ quốc, cùng với tình yêu và nỗi mong nhớ chồng con. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết: “Sáng ngày 19/12/1968, trên một đỉnh núi cao vùng tây Quế Sơn (Quảng Nam), căn cứ của cơ quan tuyên huấn Khu 5 mang mật danh A7, tôi tiễn Quý đi công tác. Không ngờ đấy là những giây phút cuối cùng chúng tôi được bên nhau...”. Đúng vào ngày 7/3/1969, trước ngày chị Xuân Quý hy sinh, anh Bùi Minh Quốc đã viết bài thơ dành tặng chị, đó là “Bài thơ tình yêu”, sau này nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc đặt lại tên là “Cuộc đời vẫn đẹp sao”. Chị Xuân Quý đã không kịp đón nhận bài thơ. Chị đã hy sinh ở tuổi 28, để lại cho đời nhiều tác phẩm truyện ngắn và bút ký, đặc biệt là tác phẩm Hoa rừng, cùng tấm gương sáng ngời về một nhà báo, nhà văn anh dũng, kiên cường, hy sinh vì độc lập dân tộc.
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/cuoc-doi-van-dep-sao-53538.htm











