Công bố Báo cáo điều tra quốc gia về bạo lực với phụ nữ

Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã thực hiện thành công điều tra quốc gia lần thứ hai về bạo lực đối với phụ nữ, đặc biệt sử dụng phương pháp điều tra đa quốc gia về tình hình sức khỏe của phụ nữ và bạo lực gia đình của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Ngày 14/7, tại Hà Nội, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) phối hợp với Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam tổ chức Hội nghị công bố kết quả Điều tra quốc gia về bạo lực với phụ nữ Việt Nam năm 2019 - “Hành trình để thay đổi”.

Tham dự sự kiện có Thứ trưởng Bộ LĐ-TBXH Nguyễn Thị Hà, bà Robyn Mudie - Đại sứ Australia tại Việt Nam, bà Naomi Kitahara - Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA), ông Phạm Quang Vinh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các đại biểu đại diện Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các tổ chức trong nước và quốc tế.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết, so với điều tra năm 2010, điều tra năm 2019 được mở rộng hơn về quy mô nghiên cứu với tổng số mẫu gần 6.000 người trong độ tuổi từ 15-64 tại 500 địa bàn của 63 tỉnh, thành phố, trong đó bao gồm cả phụ nữ khuyết tật và phụ nữ người dân tộc thiểu số. Hợp phần nghiên cứu định tính được thực hiện đồng thời với điều tra định lượng và mở rộng thêm các câu hỏi nhằm đo lường tổn thất kinh tế do bạo lực đối với phụ nữ gây ra.

Sau gần 10 năm kể từ cuộc điều tra lần thứ nhất, các kết quả thu được cho thấy những chuyển biến tích cực dù còn tồn tại hạn chế nhất định. Nhìn chung, tỷ lệ phụ nữ bị các dạng bạo lực đã giảm nhẹ. Thay đổi tích cực đang diễn ra rõ nét ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi, họ không cam chịu và mạnh mẽ hơn trong đấu tranh với bạo lực. Những người có trình độ học vấn cao có tỷ lệ bị bạo lực cũng thấp hơn và điều này cho thấy trình độ học vấn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp phụ nữ tự tin hơn, mạnh mẽ và độc lập hơn trong cuộc sống.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cũng đề cập tình trạng nhiều phụ nữ vẫn có nguy cơ cao bị bạo lực. Tình trạng bạo lực với phụ nữ vẫn bị che giấu do định kiến giới còn khá phổ biến trong xã hội. Sự im lặng, kỳ thị của cộng đồng và “văn hóa đổ lỗi” là những rào cản khiến người bị bạo lực không dám lên tiếng và kìm hãm việc sự giúp đỡ. Trẻ em cũng là nạn nhân, dễ gặp rủi ro hơn trong cuộc sống khi phải sống trong gia đình có xảy ra bạo lực.

Những tồn tại, thách thức này cần được sớm khắc phục với trách nhiệm từ phía các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ và mỗi người dân trong xã hội.

Trước tình hình đó, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm ngăn chặn và tiến tới giảm thiểu thực trạng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em, nâng cao chất lượng công tác bình đẳng giới. Đây được xem là nền tảng quan trọng thể hiện sự quan tâm, cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thúc đẩy thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Điều tra năm 2019 gồm ba phần: nghiên cứu định lượng (do Tổng cục Thống kê thực hiện); nghiên cứu định tính (do Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số -CCIHP thực hiện); và nghiên cứu về thiệt hại kinh tế do bạo lực đối với phụ nữ gây ra (do các chuyên gia quốc tế được UNFPA ủy thác thực hiện).

Nghiên cứu cũng chỉ ra, ngoại trừ bạo lực tình dục, tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ ở tất cả các hình thức năm 2019 đều thấp hơn so với năm 2010 và sự thay đổi tích cực này có lẽ đang diễn ra ở nhóm phụ nữ trẻ.

Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 đã mang lại một bức tranh toàn diện và cung cấp các số liệu cập nhật về vấn đề này. Mục đích của Điều tra này là để giúp chúng ta hiểu hơn về những điều đã thay đổi và chưa thay đổi kể từ cuộc điều tra lần thứ nhất vào năm 2010, cũng như những việc cần phải thực hiện nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam.

Ngoài ra, báo cáo cũng ước tính bạo lực đối với phụ nữ đang gây thiệt hại về kinh tế cho Việt Nam ước khoảng 1,8% GDP năm 2018.

Tại Hội nghị, bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam khẳng định: “Australiacam kết mạnh mẽ chấm dứt bạo lực trên cơ sở giới. Chúng tôi hỗ trợ Điều tra này là để chúng ta nhận thức rõ hơn có bao nhiêu số phận đang bị ảnh hưởng bởi bạo lực, cưỡng bức và quấy rối. Mỗi số liệu trong báo cáo phản ánh những trải nghiệm về bạo lực của phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam khi ở nhà, ở công sở hay nơi công cộng. Báo cáo này là bằng chứng cho thấy chúng ta lắng nghe những phụ nữ đã trải qua bạo lực, chúng ta tin tưởng họ và chúng ta cần phải hành động”.

Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam nhấn mạnh, cho dù bạo lực xảy ra ở đâu, dưới hình thức nào hay ai bị ảnh hưởng đều phải được ngăn chặn. Bà kêu gọi cả xã hội hãy cùng phối hợp để xây dựng một thế giới mà ở đó nam giới và phụ nữ, trẻ em trai và trẻ em gái đều được hưởng cuộc sống bình đẳng, an toàn, không có bạo lực.

Tại Hội nghị, Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Australia và UNFPA cùng kêu gọi hành động khẩn cấp để chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ.

Từ những kết quả thu nhận được từ Điều tra này, Bộ LĐ-TBXH, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện pháp luật, chính sách và Đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực đối với phụ nữ giai đoạn 2021 - 2025; đẩy mạnh hơn nữa những hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức và thực hành về bình đẳng giới, xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới, bạo lực đối với phụ nữ.

Đặc biệt, hiện nay Bộ LĐ-TBXH đang triển khai xây dựng Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, Đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2025, những thông tin số liệu từ Báo cáo điều tra sẽ giúp Bộ có những đề xuất và giải pháp hữu hiệu hơn.

Những thông tin số liệu từ Báo cáo điều tra này sẽ thực sự hữu ích cho các cơ quan, tổ chức và các cá nhân quan tâm trong việc đề xuất xây dựng các chính sách, chương trình, hoạt động về phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam.

Một số phát hiện chính từ điều tra năm 2019:

- Cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (62,9%) phải chịu ít nhất một hoặc nhiều hình thức bạo lực do chồng gây ra trong đời và 31,6 % bị bạo lực hiện thời (trong 12 tháng qua).

- Trừ bạo lực tình dục, tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ do chồng gây ra năm 2019 thấp hơn so với năm 2010. Ví dụ, phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác trong đời năm 2019 (26,1%) ít hơn so với năm 2010 (31,5%). Điều này rõ ràng hơn với nhóm phụ nữ trẻ.

- Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ bị chồng bạo lực tình dục trong đời năm 2019 (13,3%) cao hơn so với năm 2010 (9,9%). Điều này đặc biệt đúng ở nhóm phụ nữ trẻ ở độ tuổi từ 18 - 24 (13,9% năm 2019 so với 5,3% năm 2010). Mặc dù điều này phản ánh sự gia tăng của tình trạng bạo lực nhưng cũng có thể là kết quả của sự thay đổi xã hội mà ở đó phụ nữ cởi mở hơn khi nói về chủ đề tình dục và bạo lực tình dục. Trong tương lai cần có nghiên cứu và phân tích sâu hơn để xác định được đúng xu hướng này.

- Phụ nữ khuyết tật bị các hình thức bạo lực do chồng gây ra cao hơn so với phụ nữ không bị khuyết tật.

- 4,4% phụ nữ cho biết họ đã bị lạm dụng tình dục trước tuổi 15 tuổi.

- Ở Việt Nam, phụ nữ bị chồng bạo lực nhiều hơn so với việc bị người khác bạo lực. Cứ 10 phụ nữ thì có 1 người (11,4%) trải qua bạo lực thể xác từ khi 15 tuổi do người khác gây ra. Khi phụ nữ bị bạo lực thể xác do người khác không phải là chồng gây ra, người gây bạo lực chủ yếu là thành viên nam trong gia đình (60,6%).

- Cứ 10 phụ nữ thì có 1 phụ nữ (9%) bị bạo lực tình dục do người khác gây ra từ năm 15 tuổi. Phần lớn kẻ gây ra bạo lực là nam giới không phải thành viên trong gia đình (ví dụ: nam giới là người không quen biết, bạn bè hoặc người quen; người mới quen gần đây; hoặc người làm cùng cơ quan).

- Bạo lực đối với phụ nữ vẫn bị che giấu. Một nửa phụ nữ bị chồng bạo lực chưa bao giờ kể với bất kỳ ai. Hầu hết phụ nữ (90,4%) bị bạo lực thể xác và/hoặc tình dục do chồng gây ra không tìm kiếm bất kỳ sự hỗ trợ nào từ các cơ quan chính quyền.

- Trẻ em cũng là nạn nhân khi sống trong môi trường bạo lực. Trong số phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác, 61,4% cho biết con cái họ đã từng chứng kiến hoặc nghe thấy bạo lực. Phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục nói rằng con cái họ (5-12 tuổi) thường có các vấn đề về hành vi.

- Bạo lực đối với phụ nữ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho phát triển kinh tế và sức khỏe thể chất, tinh thần phụ nữ. Ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gây ra cho nền kinh tế Việt Nam tương đương với 1,8% GDP.

- Bạo lực là hành vi có tính tiếp thu. Hành vi này có thể được ngăn chặn và chúng ta cần hành động ngay. Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực do chồng gây ra thì nhiều khả năng mẹ của người chồng đã từng bị đánh hoặc bản thân người chồng đã bị đánh đập khi còn nhỏ.

(theo Bộ Lao động-Thương Binh và Xã hội)

Chu An

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/cong-bo-bao-cao-dieu-tra-quoc-gia-ve-bao-luc-voi-phu-nu-119368.html