Có về làng Mái...

Cái làng nghèo mà hào hoa như làng tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca: Hỡi cô thắt lưng bao xanh - Có về làng Mái với anh thì về - Làng Mái có lịch có lề - Có sông tắm mát, có nghề làm tranh…

Xưa kia, không khí sầm uất bắt đầu vào cữ một chạp, các thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé bến “ăn tranh”. Người làm tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng một sương hai nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa, lau chùi sạch sẽ. Khói đốt tranh tre ẩn hiện la đà trên các ngọn cây. Mùa lá tre rụng, người làng tranh phải đi quét nhặt từng lá, tươi quá không được mà khô quá cũng hỏng, khi đốt phải đúng hướng gió, lửa đến đâu vẩy nước đến đấy: có như thế màu đen khi in mới mịn, mới đằm.

Giấy dùng in tranh là giấy dó Đống Cao bền dai, mịn mặt. Bồi điệp phải chọn nắng hanh, nắng nhưng không có gió, gió thổi bay tờ điệp úp mặt xuống là công cốc. Ván khắc in tranh bằng gỗ mít, gỗ vàng tâm khi in theo từng bản khắc bảo đảm màu nhuần nhụy, nét khắc rõ trên vân điệp càng ngắm càng ưa nhìn. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, từ cụ già đến con trẻ đều mê và nghiện trà đặc. Thuốc lào Tiên Lãng, chè móc câu Thái Nguyên là thứ không thể thiếu được trong các đêm làm tranh. Tiếng rít thuốc lào sòng sọc nghe vui tai, nước trà đặc sánh làm cho đầu óc minh mẫn, tỉnh táo khiến cho nét vẽ, màu vẽ thêm sống động, có hồn, có vía.

Đưa tranh Đông Hồ đến với đời sống trong cơ chế thị trường là một cuộc giành giật không dễ dàng chút nào và tốn không ít công sức của cả cộng đồng.

Thực trạng của làng tranh bây giờ ra sao? Có dạo Xunhaxaba (Hà Nội) nhận đặt và xuất khẩu với số lượng tranh lớn cũng làm nức người dân nơi đây dù giá thành tranh không đắt lắm. Nhu cầu vài năm gần đây thay đổi. Người làng tranh bây giờ nảy sinh tâm lý ai đặt thì làm, nhiều khi với số lượng tranh quá ít cũng không muốn làm. Thi thoảng lắm cũng có nơi vào làng tranh đặt vài nghìn tờ, không sản xuất được thường xuyên mà cũng khó sản xuất tranh đều đặn trong năm, ảnh hưởng đến thu nhập của người làm tranh. Các nghệ nhân như cụ Thức, ông Sâm, ông Lăng... có tay nghề cao và kinh nghiệm dần dần “khuất núi” cả. Lại nhớ đến ông Lý Lăng, hơn 30 năm trước tôi và người bạn về thăm ông trong ngôi nhà tranh bốn gian tường vách thanh đạm. Ông là nghệ nhân vẽ mẫu tranh nổi tiếng ở làng Đông Hồ theo kinh nghiệm vừa làm vừa học, cứ bắt chước, cứ học hỏi dần, nhà này vẽ mẫu tranh này, nhà khác gọi giúp mẫu tranh khác. Cũng là tình xóm giềng, ông chẳng tiếc sức tiếc công! Ngoài việc sáng tác mẫu tranh ông còn truyền đạt kinh nghiệm nghề nghiệp của mình cho lớp thợ trẻ học hỏi. Chẳng hiểu bây giờ còn bao người, cụ đã truyền nghề cho “trụ” lại được với nghề trước thử thách của cơ chế thị trường khắc nghiệt, nhất là đối với một dòng tranh như tranh Đông Hồ. Sức sống của tranh dân gian này chủ yếu phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động: “Mầu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” - một nhà thơ xứ Bắc đã từng viết như thế. Chỉ cần vài tờ tranh cuộn lại bên cạnh nải quả cúng tổ tiên và dán treo trên vách nứa, tường tre cũng làm nhẹ nhõm thư thái lòng người khi Tết đến và nguôi đi nỗi nhọc nhằn cấy hái trên đồng ruộng. Đây là chưa kể những khu du lịch ở khắp đất nước ta nếu tiêu thụ được cũng là có dịp để giới thiệu cho bạn bè năm châu thấy cái hay cái đẹp của tranh dân gian, phần nào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tìm về cội nguồn dân tộc.

Thời buổi cơ chế thị trường hầu như cả làng đổ xô vào làm hàng mã, cũng vốn là mặt hàng truyền thông trước đây. Thôi thì đủ loại: hoa tai, đồng hồ, nhà táng, tivi, xe máy giấy. Rẻ cũng mươi đồng, đắt cũng đến hàng trăm nghìn... tùy theo nhu cầu người đặt mua. Làng thường giao cho người bán buôn đi Hà Nội. Còn tranh Đông Hồ một thời nổi tiếng của dòng tranh xứ Bắc, kỹ thuật công phu, giấy đắt, đủ các loại màu lấy từ chất liệu tự nhiên, tiêu thụ lại khó. Người sành tranh lắm bây giờ mới dám chơi tranh Đông Hồ, chứ không như ngày nào tranh bày bán trên mẹt quê khắp các chợ phủ Thuận và ở nhiều nơi khác. Dạo qua các hè phố cứ thấy tranh Tàu, tranh Thái bày treo la liệt trên các quầy sách báo và văn hóa phẩm như lấn át người xem, người mua. Hồi đó, chúng tôi có dịp trở lại làng Đông Hồ thăm anh Trần Nhật Tấn. Quang cảnh xóm thôn nghe chừng đổi khác nhưng nét chân tình trong con người anh vẫn như xưa. Vẫn giọng nói hồ hởi khi anh nói về tranh và lật giở từng tranh cho chúng tôi xem. Nghe anh giảng giải kỹ thuật vẽ tranh mới càng thấy biết bao công phu trong nghề. Có hôm trời nắng nóng độ ẩm tăng phải gia giảm màu cho phù hợp với độ xốp của tranh. Quấy hồ đặc quá, giấy cong vênh như bánh đa quá lửa, không in tranh được... Rồi kỹ thuật khắc ván tranh, chế tạo màu từ lá tre, rỉ đồng, hoa hòe, vỏ điệp... Anh Tấn tâm sự: “Nhà đông, tôi cũng phải cho các cháu làm thêm hàng mã để sống. Nhưng mình không làm tranh nữa mà để mai một dòng tranh thì thật tủi hổ với ông cha, các anh ạ! Nhiều khi tôi dành hẳn một gian buồng trong nhà để sáng tác mẫu tranh. Gian ngoài cho các cháu làm hàng khỏi bề bộn và đỡ bận tâm đến không khí sáng tác của mình. Kinh tế gia đình từ những năm đổi mới cũng đỡ nên tôi cũng có điều kiện vẽ tranh hơn”. Do chịu khó học hỏi và yêu nghề làm tranh dân gian, anh Tấn được các cụ nghệ nhân trong làng truyền nghề cho. Các loại tranh in ván, tranh khắc, trổ lé... anh đều nắm vững và xử lý kỹ thuật làm tranh thuần thục. Những năm trước, anh Tấn đã được tín nhiệm phụ trách tổ làm tranh Đông Hồ gia công cho Nhà nước theo chủ trương phục hồi dòng tranh dân gian.

Trước khi mất, anh Tấn đã sáng tác hàng trăm tranh, có nhiều tranh chưa đưa ra xuất bản biểu hiện công phu tìm tòi xử lý chất liệu trong tranh dân gian. Các

tranh Bắt sống phi công Mỹ, Bác Hồ về thăm làng đã được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam bày treo trang trọng và in trong các vựng tập là niềm vui của anh trên đường tìm về với những giá trị văn hóa dân tộc. Nét say mê nghệ thuật ấy chưa bao giờ giảm trong anh. Anh vẫn cất công ra các phố phường Hà Nội để sưu tầm bộ tranh Bát tiênTố nữ cổ mà lâu nay thất lạc. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật Vương Như Chiêm, Chu Quang Trứ khi về Đông Hồ đều tìm đến anh Tấn để tìm hiểu ngọn ngành của dòng tranh “độc nhất, vô nhị” này... Nhiều đoàn khách nước ngoài Mỹ, Nhật, CH Séc, Thụy Điển qua sự trình bày của anh Tấn đều viết bài ca ngợi vẻ đẹp làng tranh với sức sáng tạo dồi dào của các nghệ nhân trên các báo, tạp chí nổi tiếng của thế giới.

Và cách đây không lâu, tôi và một anh bạn là nghệ sĩ nhiếp ảnh về làng tranh gặp lại nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế - người làm sống lại một dòng tranh. Vẫn còn cảnh dọc các lối ngõ phấp phới những tờ giấy nhuộm đủ các loại màu sặc sỡ; xanh, đỏ, tím, vàng... phơi trên các sào nứa. Vẫn còn cơ man giấy trang kim anh ánh nổi lập lờ trên mặt nước đen kịt khắp cống rãnh đổ ra mương máng... Cả làng bây giờ vẫn làm hàng mã (nguồn sống chính của làng bán cho người dưới cõi âm). Họ xây được nhà tầng, mua xe máy, sắm tivi. Cái làm chúng tôi thực sự cảm động là riêng nhà ông Chế cũng xây nhà tầng khang trang và nuôi sống cả gia đình bằng tiền làm tranh. Theo sách Tranh dân gian Việt Nam - Nhà xuất bản Văn hóa, 1994 có ghi lại: “Đông Hồ có họ lớn như họ Nguyễn Đăng theo gia phả đã hành nghề in tranh ở đây được 20 đời tức là khoảng trên 200 năm...”. Truyền thống làm tranh của họ Nguyễn Đăng nếu không được khai thác bảo tồn và phát triển thì cũng chìm trong quên lãng mà thôi. May thay, điều ấy chưa xảy ra. Ông Chế tiếp chúng tôi niềm nở mặc dù ông đang tất bật hướng dẫn cả nhà làm tranh. Đang mùa vụ mà! Ông tâm sự: “Nhà tôi xây bằng tiền gom góp thu được từ làm tranh và tiền tiêu thụ tranh khoảng 100 triệu đồng. Ba gian nhà, tôi dành 1 gian tiếp khách, 2 gian còn lại để làm nơi sản xuất tranh và xếp các bản khắc cổ cất gìn trên bàn thờ gia tiên. Người của Bảo tàng Dân tộc học về ngỏ ý muốn mua lại, tôi không bán. Giữ nghề là một chuyện, đây còn là tất cả đời tôi gắn bó với nghề, thế đấy anh ạ!”.

Đưa tranh Đông Hồ đến với đời sống trong cơ chế thị trường là một cuộc giành giật không dễ dàng chút nào và tốn không ít công sức. Vẻ đẹp của tranh là vẻ đẹp cố hữu của giá trị văn hóa truyền thống. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy ông Chế là người rất chịu khó. Ông từng mày mò vào Phòng Lưu trữ - Thư viện Quốc gia photocopy toàn bộ mẫu tranh dân gian Việt Nam do một nhà xuất bản có uy tín ở Paris (Pháp) ấn hành năm 1960 mang về nghiên cứu. Được sự tài trợ của tổ chức SIDA, UNESCO, ông sang sửa lại khu nhà gỗ và phục chế hơn 100 bản khắc cổ... Và nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế suy nghĩ rất lung, ông quyết định in tranh Đông Hồ bằng nhiều cách khác nhau: tranh bộ, tranh mực nho, bưu thiếp, bưu ảnh... tùy theo kích cỡ khác nhau và thị hiếu của đối tượng người mua mà vẫn giữ được hồn vía của tranh. Ông là người chịu khó cải tiến mẫu mã tranh (ông đưa chúng tôi xem bộ 4 cô Tố nữ mà ông đã vẽ lại bức Cô kéo nhị cho đồng bộ). Cơ sở phát hành tranh của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế có mặt khắp nơi trong tỉnh Bắc Ninh, ở Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh... và nhiều nơi khác có nhu cầu tiêu thụ tranh. Hầu hết các cơ sở này đều là người nhà hoặc người làng có hiểu biết về kỹ thuật in tranh để giới thiệu cho khách có nhu cầu tìm hiểu. Chẳng mấy cuộc triển lãm ở Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh tổ chức vào các dịp mùa thu, mùa xuân ông đều đăng ký triển lãm và phát hành nhằm mang vẻ đẹp của tranh đến với đông đảo mọi người. Khách du lịch trong và ngoài nước đều tìm về nhà ông tìm hiểu cách thức khắc tranh, in tranh và mua tranh (âu cũng là cái thứ văn hóa của khách du lịch...). Áp Tết Nguyên đán, ông Chế dỡ các mẫu tranh rồi in tranh, nhân bản, đưa triển lãm rồi sản xuất tranh đại trà theo yêu cầu đơn đặt hàng của khách mua.

Bồi hồi ngắm từng chồng bản khắc gỗ từng phủ bụi thời gian và những bức tranh dân gian được treo trang trọng trên tường mang đậm sắc thái Việt, tôi hỏi ông Chế: “Sao ông lại mê nghề làm tranh như vậy?”, ông Chế cười hồn hậu, nếp nhăn trên trán giãn ra theo sự cởi mở của đà truyện: “Nói thực với anh, nghề của ông cha, giữ gìn là trách nhiệm của con cháu. Bỏ nghề, rửa nghề thì nhục lắm. Những năm tôi làm giảng viên ở Trường Mỹ thuật Việt Nam và công tác ở Nhà xuất bản Văn hóa đã cho tôi khả năng truyền đạt tranh dân gian trong đời sống và năng động trong xuất bản. Tôi đã vận dụng và phát huy sau khi nghỉ hưu về làng. Như anh đã thấy bí quyết của tôi là: Sản xuất tranh đẹp theo nhiều nhu cầu khác nhau và tạo được màng lưới phát hành tranh rộng rãi trên cả nước...”.

Chúng tôi còn được biết ông nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế ấp ủ nhiều dự định tốt đẹp về làng tranh Đông Hồ trong quần thể du lịch Thuận Thành (Bắc Ninh) - nơi lưu giữ nhiều cảnh quan đình chùa và những làng nghề truyền thống nức danh một thuở. Cầu mong cho mọi dự định của ông trở thành hiện thực ở một vùng quê mà nhiều người trong chúng ta từng gắn bó và yêu mến.

Chúng tôi rời làng tranh Đông Hồ trong một buổi sớm mai heo may chớm lạnh. Mặt trời đã lên nửa con sào mà khói sương còn vơ vẩn trên các mái nhà, ngọn cây, đất bãi. Dòng sông Đuống cứ lặng lẽ trôi xuôi, chảy mãi về xa... Tự nhiên như cảm được cái hồn của trời đất, tôi ước ao: một ngày nào đó không xa, tôi trở về cái làng tranh đã in dấu vết khá đậm trong tuổi thơ tôi những sắc màu dân dã ấy... lại bừng lên cái rậm rịch rộn rã của không khí những ngày xeo giấy, khắc ván in tranh, phơi tranh... Và ai đó kia như mẹ tôi tóc trắng như cước đang cầm thét thông quét lên nền điệp trắng ngà. Cái nền điệp ai đó đã ngắm một lần chắc chẳng thể nào quên: Con về mùa nắng thơm reo - vẹn nguyên màu trắng trong veo giữa trời.

Và tôi ước ao...

Nguyễn Thanh Kim

Nguồn SK&ĐS: http://suckhoedoisong.vn/co-ve-lang-mai-n146999.html