Cơ sở pháp lý quốc tế thiết lập trật tự pháp lý trên biển, thúc đẩy phát triển và hợp tác biển

Năm 2019 đánh dấu 25 năm ngày UNCLOS chính thức có hiệu lực, đồng thời đánh dấu 25 năm việt nam phê chuẩn công ước. Việc việt nam tích cực tham gia và thực hiện uncloS thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của việt nam vào một trật tự pháp lý công bằng về biển.

Điểm 2 Nghị quyết của Quốc hội về việc phê chuẩn UNCLOS nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.

Sơ đồ về quy định pháp luật quốc tế các vùng biển.

Sơ đồ về quy định pháp luật quốc tế các vùng biển.

Khuôn khổ pháp lý toàn diện về biển và đại dương

UNCLOS được các quốc gia và cộng đồng quốc tế coi là văn kiện pháp lý quốc tế toàn cầu quan trọng thứ hai sau Hiến chương LHQ. Nghị quyết tổng hợp thường niên của Đại hội đồng LHQ về Đại dương và Luật biển khẳng định “UNCLOS là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương và là cơ sở pháp lý cho mọi hành động và hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu; do có tầm quan trọng chiến lược, tính thống nhất, toàn vẹn của UNCLOS cần tiếp tục được duy trì” .

Nhằm mục tiêu “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến luật biển” và “thiết lập một trật tự pháp lý trên biển”, UNCLOS, với 320 Điều và 9 Phụ lục, quy định một cách rõ ràng và toàn diện về quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc phạm vi và ngoài phạm vi tài phán quốc gia, cũng như các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia dù có biển, quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý trong việc sử dụng, khai thác và quản lý biển và đại dương, các quy định về hàng hải và hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và phi sinh vật; vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển.

Vai trò của UNCLOS là khuôn khổ pháp lý toàn cầu cao nhất cũng được khẳng định qua quan hệ giữa UNCLOS và các Công ước và hiệp định quốc tế khác, và quan hệ với các nguồn khác của luật quốc tế trong đó có luật tập quán quốc tế.

Các quốc gia đã khẳng định tại UNCLOS rằng, các điều ước quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên UNCLOS về bất kỳ vấn đề nào đã được quy định trong Công ước thì phải bảo đảm phù hợp với Công ước (Điều 311.2); hiệp định/ thỏa thuận (agreement) nhằm thay đổi hoặc dừng áp dụng một số quy định của Công ước giữa hai hoặc nhiều quốc gia thành viên chỉ có thể được ký kết với điều kiện thỏa thuận đó không ảnh hưởng đến “việc thực hiện hiệu quả mục tiêu và mục đích của Công ước này”, “việc áp dụng các nguyên tắc của Công ước”, và “việc thụ hưởng các quyền và thực thi nghĩa vụ theo Công ước” (Điều 311.3).

Về quan hệ giữa UNCLOS với các nguồn khác của luật quốc tế, trong đó có luật tập quán quốc tế, chỉ có các quyền và nghĩa vụ hình thành từ các quy tắc của pháp luật quốc tế không trái với UNCLOS là được công nhận và áp dụng bởi tòa án hay tòa trọng tài có thẩm quyền theo Phần XV của Công ước (Điều 293.1). Đoạn 8 Lời nói đầu UNCLOS nêu “các vấn đề không được điều chỉnh bởi Công ước sẽ tiếp tục được điều chỉnh bởi luật quốc tế chung” cần phải được hiểu, giải thích phù hợp với mục tiêu và quy định nêu trên của UNCLOS.

Theo đó, Đoạn này là để giải quyết quan hệ giữa UNCLOS với tư cách là luật chuyên ngành (lex specialis) chứa đựng các quy phạm cụ thể về biển với luật quốc tế chung (general international law hay còn gọi là lex generalis) bao gồm các nguyên tắc và quy phạm chung áp dụng cho tất cả các ngành của luật pháp quốc tế như nguyên tắc thiện chí thực thi các điều ước quốc tế đã ký kết (pacta sunt servanda) hay giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp quốc tế, các quy định về giải thích điều ước quốc tế được pháp điển hóa trong Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước. Hơn nữa, bản thân Lời nói đầu UNCLOS đã khẳng định Công ước “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến biển”.

Do đó, việc giải thích Đoạn 8 này theo hướng UNCLOS không phải là khuôn khổ pháp lý duy nhất và tồn tại các khuôn khổ khác như luật tập quán quốc tế hình thành trước Công ước điều chỉnh các vấn đề về biển là đi ngược lại với mục tiêu của UNCLOS, nhằm hạ thấp giá trị của Công ước.

Thực tiễn án lệ gần đây, Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS đã xem xét mối quan hệ giữa UNCLOS và các nguồn khác của luật quốc tế, đặc biệt là giá trị của các quyền hình thành trước khi Công ước ra đời và kết luận: (i) Đối với các quyền và nghĩa vụ được hình thành độc lập với UNCLOS và không trái với UNCLOS, việc áp dụng các quyền này không bị Công ước làm thay đổi; (ii) Đối với các quyền và nghĩa vụ hình thành một cách độc lập trước khi UNCLOS có hiệu lực và không phù hợp với UNCLOS thì các quyền và nghĩa vụ này sẽ bị loại bỏ.

Tòa trọng tài này cũng khẳng định, không có quy định nào của UNCLOS cho phép các quyền lịch sử đối với tài nguyên được tiếp tục tồn tại tại các vùng đặc quyền kinh tế và Công ước cũng không cho phép các quyền này được được tồn tại tại thềm lục địa, biển cả và Vùng đáy biển quốc tế. UNCLOS không có quy định nào về việc duy trì và bảo vệ cho các quyền lịch sử không phù hợp với UNCLOS.

Xác định rõ quy chế pháp lý

Trên cơ sở tập quán quốc tế, các quốc gia đã ghi nhận tại UNCLOS quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển, trong đó xác định rõ phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); các vùng biển ngoài phạm vi tài phán quốc gia (gồm biển cả hay còn gọi là biển quốc tế, Vùng đáy biển quốc tế và tài nguyên khoáng sản ở đó là di sản chung của nhân loại).

UNCLOS cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các quốc gia. Các chế định vùng biển quan trọng nhất của UNCLOS phải kể đến là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo và hợp tác nhằm bảo vệ môi trường biển, bảo tồn và quản lý các nguồn lợi sinh vật biển.

Chiểu theo các chế định của UNCLOS về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mọi hoạt động liên quan đến thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển phải được phép của quốc gia đó; mọi hoạt động không được cấp phép đều là bất hợp pháp, vi phạm một cách rõ ràng các quy định của Công ước.

TS. Lê Thị Tuyết Mai

Nguồn Pháp Luật Plus: https://www.phapluatplus.vn/phap-luat-plus/co-so-phap-ly-quoc-te-thiet-lap-trat-tu-phap-ly-tren-bien-thuc-day-phat-trien-va-hop-tac-bien-d104989.html