Chưa được hưởng nhiều chính sách an sinh

Lao động nữ di cư là lực lượng lao động tích cực trên thị trường, tham gia vào cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, họ cũng là nhóm dân số phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn trong quá trình làm việc và sinh sống tại nơi di trú.

Đây là điều ghi nhận được thông qua báo cáo nghiên cứu “Quyền an sinh xã hội của lao động nữ di cư ở Việt Nam” do Cục Bảo trợ Xã hội (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) cùng Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV) thực hiện.

Lao động nữ di cư còn đối mặt với nhiều thách thức. Ảnh minh họa.

Phải đối mặt với nhiều thách thức

Theo bà Phạm Thị Hải Hà, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, ở Việt Nam hiện nay, ngày càng có nhiều người dân từ nông thôn lên thành phố với hy vọng có một cuộc sống tốt hơn. Bà Hà cho biết, lao động nữ di cư là lực lượng lao động tích cực trên thị trường, tham gia vào cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Tuy nhiên họ cũng là nhóm dân số phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn trong quá trình làm việc và sinh sống tại nơi đến; là nhóm dân số chịu nhiều thiệt thòi và dễ bị tổn thương trong xã hội; nhưng mạng lưới an sinh xã hội từ trước đến nay chưa bao phủ nhiều đến họ, đặc biệt là nhóm đang làm ở khu vực kinh tế phi chính thức.

Do hiểu biết hạn chế về quyền an sinh xã hội của mình nên nhiều lao động nữ di cư cũng không biết cách làm thế nào để tiếp cận các quyền an sinh xã hội hay tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ để tiếp cận các quyền đó tại nơi đến, khó khăn lớn nhất mà người di cư gặp phải ở nơi đến là chỗ ở.

Họ cũng bất lợi hơn lao động địa phương khi chịu chi phí sinh hoạt cao hơn do chủ nhà trọ áp dụng giá điện, nước kinh doanh đối với người thuê.

Trong những năm gần đây, các hiệp định tự do thương mại được Việt Nam ký kết có các yêu cầu bảo vệ lao động, đặt ra thách thức cũng như cơ hội cho Việt Nam khi các doanh nghiệp thường theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, chi phí thấp thông qua việc không đảm bảo điều kiện làm việc, thời gian làm việc dài và hạn chế người lao động tiếp cận các phúc lợi xã hội.

Thêm vào đó, nhiều công nhân không hiểu về các quy định của pháp luật lao động trong nước và quốc tế, hoặc quyền lợi của họ được hưởng như bảo hiểm y tế, các chế độ phúc lợi khác. Trước thực trạng trên, Quỹ Hỗ trợ Chương trình, Dự án an sinh xã hội đã đề xuất thực hiện Dự án “Thúc đẩy quyền xã hội toàn cầu cho lao động nữ di cư tại Việt Nam”, với mục tiêu là thúc đẩy quyền của lao động nữ di cư và khả năng tiếp cận các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là lao động nữ di cư ở Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, di cư có xu hướng nữ hóa khi tỷ lệ nữ/ tổng số người di cư từ 15- 59 tuổi là 52,4%. Báo cáo cho biết, có 34,3% gặp khó khăn về việc làm, 42,6% nữ lao động di cư gặp khó khăn về chỗ ở, và 97,9% lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội. Người di cư chủ yếu từ nông thôn (79,1% tổng số người di cư); 2/3 người di cư không có trình độ chuyên môn.

Người di cư thường làm các công việc giản đơn, thu nhập bình quân khoảng 5 triệu đồng/ tháng. Đáng chú ý, dẫn nguồn của Tổng Cục thống kê năm 2015, nghiên cứu cho biết hơn 1/2 người di cư đã có gia đình và có con cái, trong đó có 40% đang sống cùng con tại nơi đến. Cũng theo kết quả nghiên cứu,lao động nữ di cư có hiểu biết hạn chế về các quyền và thông tin an sinh xã hội về việc làm và thu nhập, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và dịch vụ xã hội cơ bản. Tuy nhiên do môi trường làm việc và chế độ làm việc khác nhau, lao động nữ di cư khu vực chính thức vẫn có hiểu biết tốt hơn lao động nữ di cư khu vực phi chính thức về các chính sách liên quan đến bảo hiểm xã hội và tham gia tổ chức đại diện.

Do hiểu biết hạn chế về quyền an sinh xã hội của mình nên nhiều lao động nữ di cư cũng không biết cách làm thế nào để tiếp cận các quyền an sinh xã hội hay tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ để tiếp cận các quyền đó tại nơi đến, khó khăn lớn nhất mà người di cư gặp phải ở nơi đến là chỗ ở. Họ cũng bất lợi hơn lao động địa phương khi chịu chi phí sinh hoạt cao hơn do chủ nhà trọ áp dụng giá điện, nước kinh doanh đối với người thuê.

Chia sẻ thêm về những khó khăn của lao động di cư, thạc sĩ Trần Thị Hồng, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết, qua khảo sát thực tế cho thấy, có những khoảng trống về pháp luật trong chính sách với lao động nữ. Thí dụ, nhiều chính sách an sinh xã hội chủ yếu quy định theo hộ khẩu thường trú, gây khó khăn cho lao động nữ di cư, khiến họ ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội cơ bản.

Cụ thể, lao động nữ phi chính thức khó tiếp cận BHXH và BHYT. Đối với BHXH bắt buộc, lao động nữ di cư khu vực phi chính thức không ký hợp đồng lao động nên không tham gia được BHXH bắt buộc. Mặt khác, thời gian đóng BHXH bắt buộc quá dài (20 năm) trong khi nhiều lao động nữ di cư làm việc ở các doanh nghiệp chỉ khoảng 10 -15 năm. Chính sách BHXH tự nguyện hiện nay cũng không hấp dẫn với lao động nữ di cư do mới được hưởng hai chế độ hưu trí và tử tuất.

Hai chế độ rất được lao động nữ di cư quan tâm là thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp không có, nên họ không muốn tham gia. Ngoài ra, các chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên hay đột xuất, chưa có chính sách dành riêng cho người tạm trú ngắn hạn như lao động nữ di cư. Khó khăn nữa là BHYT. Muốn mua BHYT, người lao động cần có sổ đăng ký tạm trú và văn bản đồng ý của chủ nhà. Họ cũng chỉ có thể mua BHYT tự nguyện khi chủ nhà cũng mua. Đây là những khó khăn thường xuyên với lao động nữ di cư.

Thúc đẩy quyền an sinh xã hội cho lao động di cư

Từ thực tế nghiên cứu, báo cáo “Quyền an sinh xã hội của lao động nữ di cư ở Việt Nam” cũng đã đưa ra các khuyến nghị chính sách để đảm bảo quyền an sinh xã hội cho lao động nữ di cư như: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền an sinh xã hội, ý thức chủ động trong tìm hiểu thông tin của người lao động di cư nói chung và lao động nữ di cư nói riêng; Tiếp tục phát huy vai trò của các bên liên quan trong việc hỗ trợ bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong tiếp cận các dịch vụ xã hội bình đẳng, đặc biệt là vai trò của chính quyền địa phương nơi có nhiều lao động nữ di cư đến sinh sống và làm việc cũng như tăng cường công tác thống kê về người lao động di cư để có dữ liệu nhận diện và quản lý người lao động di cư.

Tại cuộc hội thảo tham vấn ý kiến kết quả nghiên cứu về lao động nữ di cư được tổ chức mới đây, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ Xã hội Phạm Thị Hải Hà khẳng định: “Trong thời gian tới, chúng tôi phải nghiên cứu, đề xuất những chính sách thực sự phù hợp với nữ lao động di cư Việt Nam để trình Chính phủ, từ đó, giúp cải thiện điều kiện việc làm, điều kiện sống cũng như chế độ phúc lợi xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế này”.

Còn ông Tạ Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng quản lý AFV thì nhấn mạnh, cơ quan này hỗ trợ thực hiện nghiên cứu về bảo đảm quyền an sinh xã hội với lao động nữ di cư xuất phát từ thực tế. Hiện nay, số lao động đổ về các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất vùng miền rất lớn, đặc biệt là lao động nữ. Vấn đề tiếp cận quyền an sinh xã hội của lao động nữ cũng rất quan trọng. Thí dụ, ngoài quyền tiếp cận an sinh xã hội của bản thân họ về các dịch vụ y tế, việc làm, còn có quyền giáo dục, y tế cho con họ.

Trên cơ sở nghiên cứu này, sẽ đề xuất với các cơ quan liên quan, nhà hoạch định chính sách, có giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền an sinh xã hội với người lao động di cư nói chung và lao động nữ di cư nói riêng. Ông Việt Anh nêu rõ, kết quả nghiên cứu giúp các nhà hoạch định chính sách, chính quyền địa phương có cái nhìn toàn diện hơn về đời sống và vấn đề phúc lợi xã hội của lao động nữ di cư, cả nhóm chính thức và phi chính thức. Từ đó, có biện pháp cải thiện chính sách cho nhóm đối tượng yếu thế này.

Ngọc Tú

Nguồn LĐTĐ: http://laodongthudo.vn/chua-duoc-huong-nhieu-chinh-sach-an-sinh-86145.html