Chủ động xây dựng nền kinh tế biển xanh

'Việt Nam cần chủ động xây dựng một nền kinh tế biển xanh'.

Đây là ý của nhiều Đại biểu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt Nghị quyết 36) do Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) tổ chức tại Bạc Liêu ngày 31/5 vừa qua.

Nguồn ảnh: Internet.

Nguồn ảnh: Internet.

“Rừng vàng biển bạc” là câu nói quen thuộc mà người Việt Nam nào cũng biết. Nó vừa chỉ sự giàu có trù phú của nước ta về tài nguyên thiên nhiên, vừa thể hiện lòng tự hào, niềm yêu quý của mỗi người dân đối với của cải, giang sơn gấm vóc của dân tộc Việt Nam.

Với bờ biển dài 3.260 km từ Bắc xuống Nam, trung bình mỗi 100km2 diện tích lãnh thổ thì Việt Nam có gần 1km chiều dài bờ biển. Ngoài ra, hơn 3.000 hòn đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia rộng hơn 1 triệu km2 cùng 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đây là chỉ số thuộc loại cao hàng đầu của thế giới, góp phần khẳng định rằng Việt Nam thực sự là quốc gia biển và có nhiều tiềm năng, lợi thế từ biển.

Đánh giá về thực trạng kinh tế biển thời gian qua cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết, giai đoạn 2007 - 2017, đóng góp của 28 tỉnh, thành phố ven biển trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) luôn đạt trên 60%, trong đó đặc biệt nổi bật là vai trò của các khu kinh tế, khu công nghiệp, các cơ sở công nghiệp quan trọng ven biển. Các ngành kinh tế thuần biển luôn có đóng góp lớn vào GDP trong suốt hơn 10 năm qua với ước tính đạt khoảng 10% mỗi năm.

Dẫu vậy, những kết quả thu được từ kinh tế biển vẫn chưa được như kỳ vọng, tương xứng với tiềm năng hiện có. Nhất là trong bối cảnh nguồn tài nguyên trên đất liền hiện đang bị khai thác quá mức, thậm chí là cạn kiệt. Bên cạnh đó, không ít nước chuyển sang cái gọi là “chiến lược biển” thì đã đến lúc chúng ta cần chú trọng khai thác, nâng niu nguồn tài nguyên quy giá này.

Theo đó, vẫn còn tồn tại một số bất cập trong quá trình khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên này. Có thể thấy, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường biển chưa được gắn kết chặt chẽ, trong một số trường hợp còn tạo ra xung đột. “Sức khỏe” của các vùng biển của Việt Nam chưa được bảo đảm do chúng ta chưa thể hài hòa giữa khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển với bảo vệ, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái biển, ven biển.

Do đó, ô nhiễm môi trường biển có lúc, có nơi vẫn còn diễn ra nghiêm trọng như sự cố môi trường biển tại bốn tỉnh miền trung; Ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đã trở thành vấn đề cấp bách; Một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức, đa dạng sinh học suy giảm; công tác ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn hạn chế.

Chính Thứ trưởng Bộ TN-MT Trần Quý Kiên nhận định: "Trong những năm qua, kinh tế biển của Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, song vẫn ẩn chứa nhiều nguy cơ, thách thức. Việc phát triển kinh tế biển ở một số nơi, một số khu vực đã gây ra ô nhiễm môi trường khu vực ven bờ, các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm. Một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế..."

Dân gian ta từ lâu đã có câu về đất nước mình: Tam sơn tứ hải nhất phần điền, rồi lại có câu khác: Điền tư ngư chung. Hai câu này dường như có một sự gợi mở nhất định về tầm quan trọng và cung cách quản lý nghề biển, dù nghề biển xa xưa chủ yếu chỉ là nghề cá, trên bờ chủ yếu nghề nông. Chí ít từ cách nói này cho thấy quản lý trên biển khác với công việc quản lý mọi thứ trên bờ dù nghề biển nay đã khác nhiều.

Việt Nam là một quốc gia biển, có rất nhiều lợi thế từ biển. Động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tương lai có một phần hết sức quan trọng là từ biển. Có giàu lên từ biển mới có điều kiện cần để nghĩ tới mạnh về biển xét từ thành quả và tiềm lực. Nhưng thật sự mạnh về biển cần phải có điều kiện đủ là những yếu tố quan trọng khác, trong đó phải lưu tâm tới mạnh về quản lý biển và mạnh về khoa học công nghệ biển.

Đồng thời, con người ta phải biết cách khai thác hợp lý để trở thành vàng bạc thực sự. Chứ rừng là vàng, biển là bạc, mà nếu phá rừng thì tiêu hủy vàng, phá biển là đốt bạc còn gì!

Sông Hàn

Nguồn DĐDN: http://enternews.vn/chu-dong-xay-dung-nen-kinh-te-bien-xanh-151328.html