Chủ động, linh hoạt, thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ

Năm 2020, dưới sự chỉ đạo sát sao và đúng hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu, thể hiện tinh thần quyết liệt, hiệu quả, sự nỗ lực, quyết tâm chính trị cao của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các đơn vị trong toàn ngành. Những kết quả này góp phần quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, tạo tiền đề vững chắc hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.

Năm 2020, dưới sự chỉ đạo sát sao và đúng hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu, thể hiện tinh thần quyết liệt, hiệu quả, sự nỗ lực, quyết tâm chính trị cao của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các đơn vị trong toàn ngành. Những kết quả này góp phần quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, tạo tiền đề vững chắc hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.

Giữ ổn định trong bối cảnh đầy biến động

Năm 2020 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ 2016-2020, có ý nghĩa quan trọng để hoàn thành các mục tiêu và kế hoạch đã đặt ra cho cả giai đoạn. Tuy nhiên, từ tháng 3-2020, thế giới chứng kiến những biến động lớn chưa từng có trong nhiều thập kỷ do tác động của đại dịch Covid-19. Trong nước, dịch bệnh đã tác động lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội; sản xuất, kinh doanh bị đình trệ; hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, thu nhập giảm sâu... Ðóng vai trò huyết mạch trong nền kinh tế, hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch. Trong bối cảnh đó, với phương châm tập trung thực hiện "mục tiêu kép" của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành ngân hàng đã sớm vào cuộc, chủ động nắm bắt, dự báo tình hình, triển khai hiệu quả các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ (CSTT).

Cụ thể, NHNN đã điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng các công cụ của CSTT góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ đắc lực nền kinh tế ứng phó tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Tiếp tục điều hành nghiệp vụ thị trường mở chủ động, linh hoạt. Trong điều kiện vốn khả dụng dư thừa trong hơn hai tháng đầu năm và áp lực lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với khối lượng, kỳ hạn và lãi suất phù hợp nhằm chủ động kiểm soát tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát nhưng vẫn duy trì vốn khả dụng ở mức hợp lý, nhất là từ giữa tháng 3-2020 (giai đoạn đầu thực hiện giãn cách xã hội) nhằm hỗ trợ kịp thời thanh khoản cho các tổ chức tín dụng (TCTD), ổn định thị trường tiền tệ và hỗ trợ giảm mặt bằng lãi suất, chủ động ứng phó đại dịch Covid-19. Bên cạnh đó, NHNN điều hành đồng bộ các công cụ khác như giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung đối với các TCTD; thực hiện tái cấp vốn đối với các TCTD theo các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt..., không tạo ra áp lực gia tăng lạm phát.

Về điều hành lãi suất, để kịp thời hỗ trợ nền kinh tế trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, trong năm 2020, NHNN đã điều chỉnh giảm ba lần đồng bộ các mức lãi suất với quy mô tương đối lớn và liên tục, tổng mức giảm khoảng 1,5 đến 2%/năm lãi suất điều hành để sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp; giảm 0,6 đến 1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới sáu tháng, giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp (DN), người dân (hiện nay chỉ còn 4,5%/năm). Mức giảm lãi suất điều hành của Việt Nam hiện là một trong các mức giảm mạnh nhất so với các nước trong khu vực.

Năm 2020, tỷ giá ổn định tiếp tục là một điểm sáng trong điều hành của NHNN bất chấp ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19. Theo đó, cơ quan này tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng công bố tỷ giá trung tâm biến động hằng ngày phù hợp diễn biến thị trường trong nước và ngoài nước, cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT, hỗ trợ hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và giúp nền kinh tế ứng phó tốt hơn trước các cú sốc từ bên ngoài. Giai đoạn cuối tháng 3-2020, NHNN đã linh hoạt điều chỉnh tỷ giá bán can thiệp, thực hiện truyền thông và sẵn sàng bán can thiệp thị trường ngoại tệ để bình ổn thị trường. Nhờ đó, tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng giảm dần về quanh mức giá mua của NHNN. Nhìn chung đến nay, thị trường ngoại tệ trong nước vẫn duy trì hoạt động ổn định, thanh khoản tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. NHNN mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, giúp bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia và củng cố mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.

Ðối với công tác tín dụng, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt tăng trưởng tín dụng, bảo đảm cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế; chủ động triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho DN và người dân tiếp cận vốn. Những tháng đầu năm, do tác động của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng bị chững lại, nhu cầu vay vốn mở rộng sản xuất, kinh doanh của khách hàng giảm. Mặc dù TCTD triển khai nhiều chương trình, chính sách tín dụng nhưng tăng trưởng tín dụng đạt mức thấp. Ðể khuyến khích TCTD mở rộng tăng trưởng tín dụng hiệu quả, NHNN đã chủ động điều chỉnh tăng mức tăng trưởng tín dụng của nhiều TCTD có khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh vào các lĩnh vực phục vụ tăng trưởng kinh tế; ưu tiên chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn đối với TCTD tham gia hỗ trợ xử lý quỹ tín dụng nhân dân yếu kém, TCTD có tỷ lệ nợ xấu thấp, TCTD tích cực giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng,… Nhờ vậy, tín dụng từng bước được cải thiện và hết năm 2020, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 11% so với cuối năm 2019.

Công tác cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu cũng tiếp tục được triển khai quyết liệt. Năng lực tài chính, quản trị điều hành và hiệu quả hoạt động, các chỉ số an toàn, tính minh bạch trong hoạt động của các TCTD được cải thiện rõ rệt và ngày càng tiệm cận với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Việc triển khai Hiệp ước vốn Basel II tiếp tục được các TCTD tập trung thực hiện. Trước tình hình phức tạp của dịch Covid-19, NHNN đã chỉ đạo các TCTD rà soát nợ xấu, kế hoạch xử lý nợ xấu năm 2020 để bảo đảm phù hợp diễn biến dịch bệnh; đồng thời tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD trong giai đoạn từ cuối năm 2017 đến tháng 7-2020 được duy trì dưới 2%; tuy nhiên do tác động của dịch Covid-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã tăng lên 2,14% vào cuối tháng 9-2020 và 2,09% vào cuối tháng 10-2020. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD giảm mạnh, từ mức 10,08% cuối năm 2016 xuống mức 4,36% tháng 10-2020. Những nỗ lực của ngành ngân hàng trong quá trình thực hiện cơ cấu lại và xử lý nợ xấu đã góp phần quan trọng bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, tạo nền tảng kinh tế vĩ mô bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín trên thế giới liên tục điều chỉnh tăng triển vọng xếp hạng trong các năm gần đây.

Ðối diện nhiều thách thức

Năm 2020, điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo, nhưng vẫn còn nhiều thách thức trong năm 2021, đòi hỏi toàn ngành phải tập trung xử lý, tháo gỡ. Ðó là, đại dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, triển vọng phục hồi của nền kinh tế thế giới khá mong manh; thị trường tài chính - tiền tệ toàn cầu diễn biến khó lường; xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư toàn cầu, chuyển hướng thương mại, nguy cơ về việc một số quốc gia áp đặt các biện pháp thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam có thể ảnh hưởng tới cung cầu ngoại tệ và tâm lý trên thị trường ngoại hối trong nước,... Những yếu tố bất định này khiến công tác phân tích, dự báo trở nên khó khăn hơn, đặt ra những thách thức lớn đối với công tác điều hành CSTT, chính sách tỷ giá của NHNN.

Các tổ chức quốc tế dự báo, kinh tế Việt Nam năm 2021 sẽ thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực và thế giới, từ 4,5 đến 8,1% với nhiều tín hiệu tương đối lạc quan. Tuy nhiên, với diễn biến khó lường từ dịch Covid-19 trong nước và quốc tế, việc áp dụng lại các biện pháp kiểm soát và phong tỏa trên phạm vi rộng có thể ảnh hưởng tiêu cực, khó lường tới triển vọng kinh tế năm 2021. Dự báo lạm phát bình quân Việt Nam năm 2021 có khả năng được kiểm soát khoảng 4%, nhưng vẫn chịu áp lực và rủi ro gia tăng (vượt 4%). Cụ thể: Rủi ro giá thế giới có thể bật tăng mạnh trở lại khi dịch bệnh được kiểm soát và hệ quả của việc ngân hàng trung ương và chính phủ nhiều nước thực hiện chính sách nới lỏng không hạn chế, cầu thế giới nhanh chóng phục hồi,... sẽ gây áp lực mạnh tới lạm phát thế giới và trong nước. Giá lương thực, thực phẩm có thể tăng do giá thế giới tăng. Thời tiết, thiên tai, dịch bệnh, xâm nhập mặn,... diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn cung. Ðáng chú ý, nếu dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, phát triển thành công vắc-xin, cầu trong nước có thể phục hồi mạnh trở lại, khiến áp lực lạm phát bên cầu tăng nhanh hơn... Ðiều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của CSTT và các chính sách vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa, chính sách quản lý giá của Nhà nước.

Mặt khác, tình hình dịch Covid-19 kéo dài ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới, ảnh hưởng tới hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu. Các biện pháp kiểm soát, phong tỏa, hạn chế đi lại giữa các nước có thể tiếp tục gây ảnh hưởng lên chuỗi giá trị toàn cầu khi nguồn cung gián đoạn, cầu quốc tế hồi phục khó khăn, sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu và du lịch của Việt Nam. Căng thẳng địa chính trị, nhất là giữa các quốc gia lớn có thể gây bất ổn chung cho nền kinh tế toàn cầu. Ðồng thời, dịch bệnh làm ảnh hưởng tới tình hình tài chính và hoạt động của các DN trong nền kinh tế, dẫn tới việc các TCTD phải tạo điều kiện để cơ cấu, giãn, hoãn nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng. Ðiều này trong ngắn hạn có thể giảm bớt áp lực với DN nhưng về trung, dài hạn có thể gây ra các rủi ro về nợ xấu cho các TCTD, tạo áp lực lên tính ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng.

Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những thách thức đối với hoạt động thanh toán và công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, nhất là trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm an ninh, an toàn các hệ thống công nghệ thông tin. Ðiều này đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt để đáp ứng kịp xu thế phát triển của các dịch vụ và mô hình thanh toán mới. Ðồng thời, nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh cung ứng dịch vụ thanh toán ở địa bàn nông thôn. Việc triển khai thanh toán trực tuyến cho nền kinh tế phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ, do đó cần tăng cường trao đổi, phối hợp để kết nối, tích hợp hệ thống thanh toán với hệ thống khác trong nền kinh tế.

HỒNG ANH

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/-chu-dong-linh-hoat-than-trong-trong-dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-630767/