Chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam - Sự kết tinh truyền thống dân tộc với ý Đảng, lòng dân

Ngay sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng ta đã xác định đường lối chung để lãnh đạo cách mạng là: 'Không ngừng nâng cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa...' (1).

Từ đó đến nay, trong Cương lĩnh, các nghị quyết, chỉ thị, Đảng ta luôn thống nhất cao quan điểm xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam cùng với các chiến lược khác để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, chúng ta mới chỉ thực hiện một số chiến lược về quân sự, chưa từng thực hiện một chiến lược nào về quốc phòng, nên khi đất nước hòa bình, chúng ta cần tiến hành sự nghiệp quốc phòng đích thực để bảo vệ đất nước thì chưa có đủ cơ sở khoa học để xây dựng Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Trước tinh thần trách nhiệm cao với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đã làm việc tận tụy, trách nhiệm và thống nhất đưa ra khái niệm về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (năm 1996), nhưng chưa trở thành nhận thức của mọi người, nhất là những người đã trải qua hai cuộc chiến tranh, nên ít nhiều cũng ảnh hưởng, tác động đến quá trình nghiên cứu, dẫn đến Chiến lược Quốc phòng chậm hoàn thành. Chính vì thế, trong ba kỳ Đại hội X, XI, XII của Đảng đều chỉ rõ: “Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh và các chiến lược chuyên ngành khác”(2), “Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới...”(3). Từ xưa đến nay, dân tộc ta đều mong ước được sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Thực hiện nghị quyết của Đảng và đáp ứng niềm mong mỏi của nhân dân, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam.

Khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng luôn bám sát đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các nghị quyết của Đảng về công tác quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, thống nhất một số quan điểm cơ bản, như: “Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc... Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội... Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế... Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng...”(4). Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, quốc phòng, như: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”; sức mạnh nhân dân là vô địch, đoàn kết toàn dân, vũ trang toàn dân; xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; chính trị trọng hơn quân sự, “người trước, súng sau”... Quá trình xây dựng, chúng ta đã kế thừa truyền thống, tư tưởng quân sự, quốc phòng của dân tộc: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “chúng chí thành thành”, “ngụ binh ư nông”; “đánh địch bằng quân sự, chính trị, ngoại giao và “mưu phạt nhi tâm công” làm cho kẻ thù lung lay ý chí, hạ vũ khí, đầu hàng, tắt lửa chiến tranh... Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự, quốc phòng của thế giới và chủ động, tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0); tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, với sự tham gia của nhiều tướng lĩnh, nhà khoa học và xin ý kiến các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ; chuẩn bị nghiêm túc, công phu kết quả thể hiện trong 21 đề tài, công trình tổng kết... làm cơ sở để hoàn thiện hai chiến lược quan trọng này.

 Ảnh minh họa. TTXVN.

Ảnh minh họa. TTXVN.

Để Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam đi vào cuộc sống, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo sự thống nhất về nhận thức và sự đồng thuận trong xã hội về sự cần thiết phải xây dựng hai chiến lược này; từ đó đề cao tinh thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện. Trước hết, cần hiểu rằng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, mang tính chất hòa bình, tự vệ, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng - nhân tố quyết định. Trong đó, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của LLVT nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân. Một trong những nội dung quan trọng của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là nhằm xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược xác định rõ một số tình huống quốc phòng, đồng thời dự kiến các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.

Theo quan điểm của Đảng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam dự báo các đối tượng quốc phòng cả bên trong và bên ngoài, chỉ rõ tính chất, đặc thù của đối tượng, làm cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận biết và đấu tranh. Mục tiêu của chiến lược là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền hòa bình vững chắc của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; tham gia bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; ngăn chặn nguy cơ chiến tranh và xung đột vũ trang; đẩy mạnh hợp tác và đấu tranh quốc phòng; xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược. Đồng thời, xác định phương hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Theo đó, đến năm 2030, trên cơ sở nền kinh tế đất nước, cần tập trung xây dựng quân đội hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài ra, chiến lược còn xác định rõ các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong tổ chức thực hiện chiến lược. Trong đó, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định thắng lợi; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lợi ích cao nhất của quốc gia-dân tộc. Kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; kiên trì, kiên quyết đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, dựa vào luật pháp quốc tế và cơ chế, quy tắc khu vực. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho các lực lượng chủ động đưa ra quyết định không thể nhân nhượng, sẵn sàng tự vệ khi chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc bị xâm phạm; đánh bại mọi hành động xâm lược, bảo vệ vững chắc của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đề ra nguyên tắc về đối nội và đối ngoại; trong đó, tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, quốc tế; chính sách quốc phòng, xây dựng lòng tin chiến lược; chỉ đạo công tác chuẩn bị, hoạt động phòng thủ, tiến công, giành và giữ quyền chủ động trong mọi tình huống. Đồng thời, đề ra phương châm chỉ đạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” cả trong đối nội và đối ngoại, thời bình và thời chiến; độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc là “bất biến” và phải giữ “trong ấm, ngoài êm”; lấy con người làm trung tâm, “người trước, súng sau”. Quan điểm quốc phòng của ta là, thời bình thực hiện sự nghiệp quốc phòng là của dân, do dân và vì dân; thời chiến bám trụ, bám dân để chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; chủ động tích cực đấu tranh trên các lĩnh vực; kết hợp đấu tranh phi vũ trang và vũ trang. Trong mọi tình huống, kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; chủ động tự bảo vệ, theo phương châm: Làng giữ làng, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh, không trông chờ, ỷ lại. Trên cơ sở đó, đề ra phương thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hợp tác và đấu tranh quốc phòng theo từng tình huống. Để thực hiện mục tiêu đó, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, nhằm đảm bảo “Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn bớt thù”.

Xây dựng Chiến lược Quân sự Việt Nam nhằm cụ thể hóa nội dung cốt lõi của Chiến lược Quốc phòng, đó là: Nghệ thuật sử dụng sức mạnh quân sự Nhà nước, toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định trên nền tảng quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân. Nội dung cốt lõi của Chiến lược Quân sự là: Nghệ thuật tổ chức, chỉ đạo, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh; xác định đối tượng; nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; mục tiêu chiến lược, phương châm, phương thức tiến hành chiến tranh; xây dựng các kế hoạch tác chiến chiến lược; chuẩn bị các điều kiện chính trị, tinh thần, cơ sở vật chất; xây dựng thế trận; chuẩn bị lực lượng; vận dụng các hình thức tác chiến chiến lược. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng... nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh, bảo vệ sự thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.

Trên cơ sở dự báo đối tượng tác chiến, hình thái chiến tranh, chiến lược đề ra tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, phương thức tiến hành của từng hình thái chiến tranh; khẳng định chiến tranh nhân dân phát triển vẫn là phương thức chủ yếu của Việt Nam, nhằm đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng vũ khí, phương tiện công nghệ cao, các hình thái chiến tranh, trên các môi trường tác chiến mới (không gian mạng-không gian vũ trụ). Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân kết hợp giữa chiến tranh nhân dân địa phương với các cuộc chiến tranh của các binh đoàn chủ lực; coi trọng và phát huy mọi loại vũ khí, trang bị hiện có, khai thác, sử dụng vũ khí hiện đại theo cách đánh của Việt Nam. Xác định phương thức của các hình thức tác chiến chiến lược; chú trọng hình thức tác chiến mới, như: Không gian mạng và tiến công tổng hợp.

Chiến lược Quân sự Việt Nam xác định phương hướng tạo bước đột phá về tổ chức, biên chế, trang bị phù hợp với khả năng của nền kinh tế; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, điều hành chiến tranh theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Theo đó, điều hành tác chiến chiến lược đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương; sự quản lý của Nhà nước, Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành trực tiếp các hoạt động quân sự, đấu tranh vũ trang, tác chiến chiến lược và tổ chức phối hợp với các ban, bộ, ngành thực hiện các mặt bảo đảm cho chiến tranh. Coi trọng công tác Đảng, công tác chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Quân đội nhân dân; tiến hành đồng bộ các mặt công tác bảo đảm phù hợp với điều kiện mới. Ngoài ra, Chiến lược Quân sự Việt Nam còn xác định nội dung bảo đảm ngân sách xây dựng các khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng; xây dựng lực lượng, mua sắm, sản xuất vũ khí, phương tiện, trang bị; huấn luyện, đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quân sự thời bình và thời chiến.

Phải khẳng định rằng, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam thực sự là kết tinh truyền thống dân tộc với ý Đảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được ban hành trong giai đoạn hiện nay, hai chiến lược này đã đánh dấu bước phát triển mới trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đất nước phát triển, hòa bình, ổn định. Trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là LLVT trước Tổ quốc phải tổ chức, triển khai thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, cần tổ chức quán triệt sâu sắc, nghiêm túc tinh thần cơ bản của hai chiến lược trong các tổ chức đảng, ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và toàn quân theo phạm vi, lĩnh vực, nhằm trang bị cho mọi tầng lớp nhân dân, cả hệ thống chính trị nhận thức đúng đắn về nội dung chiến lược, đổi mới tư duy, phương pháp, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý chí, trách nhiệm, biến quyết tâm thành hành động cách mạng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị căn cứ nghị quyết của Chính phủ thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam để xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện. Đặc biệt, trong quân đội cần nhanh chóng bổ sung, điều chỉnh các chiến lược chuyên ngành: Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, giáo dục, huấn luyện, đào tạo, nghiên cứu khoa học, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật... Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, bổ sung vào chương trình giáo dục quốc phòng, an ninh trong các nhà trường và toàn xã hội với nội dung, mức độ phù hợp từng đối tượng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ huy tổ chức triển khai thực hiện kiên quyết, nghiêm túc các chương trình, kế hoạch hành động của mình; thường xuyên kiểm tra, giám sát, báo cáo kịp thời, quyết tâm chính trị cao, tổ chức chặt chẽ và có phương pháp khoa học là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện tốt Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

--------------------

(1) - ĐCSVN - Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H. 1997, tr. 67.

(2) - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 111.

(3) - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 235.

(4)- BCHTW - Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương,

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Nguồn QĐND: http://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/chien-luoc-quoc-phong-chien-luoc-quan-su-viet-nam-su-ket-tinh-truyen-thong-dan-toc-voi-y-dang-long-dan-537453