Cầu nối văn học với cuộc sống

So với các môn học khác, bộ môn Ngữ văn có nhiều lợi thế hơn khi bài học được vận dụng phương pháp trải nghiệm sáng tạo và tích hợp liên môn. Tiết học sinh động, bổ ích do cô Trần Thị Bé, GV Trường THCS Nguyễn Hữu Thọ, quận 7, TPHCM thực hiện là một minh chứng.

Tập trung xem màn hình chiếu

Tiết “Ôn tập văn học dân gian” tại lớp 6TC3 có nhiều điểm cộng hơn khi GV bộ môn (GVBM) đã lấy trải nghiệm sáng tạo và tích hợp liên môn làm phương pháp dẫn đường.

Sân chơi trải nghiệm thiết thực

Văn học dân gian (VHDG) chiếm một thời lượng không nhỏ của chương trình Ngữ Văn ở trường THCS, là kho tàng văn học rộng lớn, phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại. Nhiều GVBM đứng lớp đã chia sẻ, với thời lượng trên lớp người giáo viên khó thể nói hết cái hay, cái đẹp của VHGD.

Chính hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) thông qua chủ đề Văn học dân giangiúp học sinh nâng cao hiểu biết về văn học dân gian, hình thành kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tham gia và tổ chức hoạt động tập thể. Hoạt động đó còn bồi dưỡng đắc lực năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, giao tiếp, hợp tác cho học sinh. Đây cũng là con đường đi ngắn nhất để các em được bồi dưỡng thái độ tôn trọng các giá trị văn hóa của dân tộc, biết yêu thương con người, có cách sống, thái độ sống đúng dắn, có sự rung cảm trước tác phẩm văn học.

Trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn là một hoạt động ngay trong lớp vô cùng cần thiết và bổ ích. Qua trải nghiệm này, các em học sinh sẽ tiếp cận được những vẻ đẹp lung linh của thể loại VHDG. Đặc biệt việc tổ chức hoạt động trải nghiệm thông qua hình thức sân khấu đã tiếp sức cho các tác phẩm văn học được hồi sinh trong môi trường diễn xướng, làm sáng lên những vẻ đẹp hoàn mỹ của tác phẩm VHDG mà do sự hạn chế về thời gian và điều kiện khác giờ học trên lớp khó có thể mang lại. Hoạt động này còn mang đến một sân chơi bổ ích, lành mạnh, từ đó giáo dục cho các em niềm tự hào về vẻ đẹp văn hóa của dân tộc và niềm say mê bộ môn Ngữ văn.

Mặc dù ngay từ khi vào bài, trong phần Khởi động GV không sử dụng phương pháp thuyết trình hay thảo luận nhóm nhưng dưới sự điều khiển của 2 HS Nguyễn Ngọc Quỳnh Như và Trần Ngọc Yến Nhi, các kiến thức về 4 thể loại VHDG gồm truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười mà các em đã học được tái hiện một cách sinh động bằng trò chơi kết cột. Cách diễn đạt lưu loát và đặc biệt là biết làm chủ bục giảng, 2 HS đã vào vai cô giáo rất ngọt.

Tiểu phẩm Sơn Tinh Thủy Tinh

Mở rộng phát triển năng lực người học

Những kiến thức căn bản đó một lần nữa được khắc ghi từ kênh chữ trên màn hình trình chiếu và yêu cầu đọc lại của đại diện 4 nhóm. Đối với HS lớp 6 đầu cấp, các đồ dùng trực quan sinh động luôn có tác động mạnh trong giờ học vì tư duy hình tượng còn hạn chế. Đó cũng là lý do GVBM đưa ra rất nhiều hình ảnh để HS đi tìm những câu trả lời đúng nhất như hình ảnh con Rồng cháu Tiên, hình ảnh người nông dân đánh cá, người thiếu nữ miền núi để đi đến kết luận bài học: “Dù người miền xuôi hay miền núi, tất cả đồng bào ta đều là con một nhà cùng một nòi giống tổ tiên”.

Sự tích Hồ Gươm; Bánh chưng bánh dày; Truyền thuyết Thánh Gióng… sau đó cũng được đại diện các nhóm “trình làng” thông qua hình ảnh gợi ý đầy màu sắc và sinh động trên màn hình trình chiếu. Giáo án ôn tập của GV đến đây không chỉ dừng lại những hình ảnh bất động mà nâng lên cấp độ cao hơn là có một video clip về truyền thuyết Thánh Gióng.

Diễn truyện Em bé thông minh

Từ không khí trầm lắng, giờ học bắt đầu sôi nổi hẳn lên khi được xem những cảnh quay của phim hoạt hình nói về cuộc đời Thánh Gióng từ lúc sinh ra đến lúc đánh xong giặc ngoại xâm. Trường đoạn Thánh Gióng uy nghiêm cưỡi ngựa sắt bay về trời là một hình ảnh đẹp lãng mạn để lại trong lòng người xem niềm tự hào và tinh thần tự cường dân tộc. Đây là bài học lịch sử, bài học về đạo đức được các em tiếp nhận qua giờ Ngữ văn một cách tự nhiên và giản dị.

Mở đầu cho màn sân khấu hóa truyện dân gian, nhóm của Minh Khang, Hoàng Mai, Quốc Cường, Minh Tiến đã đưa lên bục giảng tiểu phẩm Sơn Tinh – Thủy Tinh. Tuy bận đồ đồng phục đi học nhưng với những chiếc mão, vương miện bằng giấy tự chế đội trên đầu, các nghệ sĩ nhí đã đưa người xem trở về khung cảnh kén rể của vua Hùng thứ 18.

Nếu đây là màn kịch ngắn chỉ sáng tạo trong ngôn ngữ đối thoại của từng nhân vật thì phần diễn truyện “Em bé thông minh” đã có phần sáng tạo hơn của tác giả viết kịch bản. Lê An Nhiên cho hay: “Vì lớp không có bạn nam vào vai cậu bé thông minh nên tụi con đã chuyển sang cô bé thông minh mới có diễn viên đóng”. Tuy khác với câu chuyện trong nguyên bản nhưng đây là phần sáng tạo của nhóm 1, vẫn có thể chấp nhận được và đúng là “cái khó ló cái khôn”. Đó cũng là 2 nhân vật không có trong cốt truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” nhưng đã được các em “sinh ra” để đối thoại trên sân khấu - đó là nhân vật biển cả và con cá vàng.

Trải nghiệm sáng tạo đã giúp các em cải tạo hoàn cảnh nếu gặp phải những trở ngại để có thể vượt qua. Năng lực tự giải quyết cho bản thân được các em vận dụng linh hoạt dù còn nhỏ tuổi. Đây là bài học có ích cho kỹ năng sống, cho những bước chân ra đời sau này khi các em khôn lớn trưởng thành. Bên cạnh đó năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp cũng bắt đầu được hoàn thiện hơn.

Chỉ qua một tiết ôn tập, những giá trị văn chương đã đi vào cuộc sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong lớp. Rõ ràng hoạt động trải nghiệm sáng tạo đã minh chứng được chân lý: “Văn học là nhân học” và trở thành cầu nối bền vững giữa trang sách với cuộc đời.

Nguyễn Hoàng Anh

Nguồn GD&TĐ: http://giaoducthoidai.vn/trao-doi/cau-noi-van-hoc-voi-cuoc-song-3979388-b.html