Cắt giảm điều kiện kinh doanh: Còn nặng về đơn giản hóa
Nhiều ý kiến của các chuyên gia khẳng định, cải cách điều kiện kinh doanh vẫn chưa đi vào thực chất, rào cản kinh doanh vẫn còn khá phổ biến và tư duy về cách thức quản lý vẫn chưa thực sự thay đổi.
Vẫn mọc ra điều kiện kinh doanh mới chất lượng kém
Báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy, năm 2017 Việt Nam tồn tại gần 4.300 điều kiện kinh doanh trong 15 lĩnh vực. Trong đó, công thương là lĩnh vực dẫn đầu về số lượng điều kiện kinh doanh với hơn 1.152 điều kiện và tiếp theo đó giao thông vận tải với 517 điều kiện. Hệ thống điều kiện kinh doanh này đã dẫn tới 5 nguy cơ cho DN như: rủi ro về pháp lý, gia tăng chi phí, hạn chế cạnh tranh, hạn chế sáng tạo và tác động bất lợi cho DNNVV.
“Điều kiện kinh doanh là một loại rào cản lớn đến gia nhập thị trường, hạn chế cạnh tranh, hạn chế sáng tạo và tác động bất lợi đến DN nhỏ và vừa. Theo đó, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành rà soát và đề xuất cắt giảm 50% số điều kiện kinh doanh, hoàn thành và trình Chính phủ ký ban hành trước ngày 31/10/2018”, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) Nguyễn Đình Cung cho biết.
Theo ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng CIEM, các quy định về điều kiện kinh doanh có chất lượng thấp nhưng các cơ quan quản lý nhà nước vẫn coi đó là công cụ chủ lực thực hiện quản lý nhà nước, điều này thể hiện sự yếu kém về tư duy quản lý, thiên về quản lý bằng mọi giá. Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát chất lượng quy định về điều kiện kinh doanh không hiệu quả, thiếu cơ chế đảm bảo thực thi đầy đủ và chưa duy trì được rà soát và nâng cao chất lượng quy định điều kiện kinh doanh một cách hiệu quả và thường xuyên.
Đánh giá sơ bộ về kết quả rà soát việc cắt giảm điều kiện kinh doanh, nhiều ý kiến đồng ý với kết quả tích cực, Chính phủ có những bước tiến quan trọng, xúc tiến cải cách điều kiện kinh doanh đồng đều hơn giữa các bộ, ngành; đã thấy sự chuyển động của các bộ và không khí khẩn trương hơn ở các địa phương, chương trình cải cách bài bản hơn, có sự chỉ đạo, giám sát…
Theo ông Phan Đức Hiếu, đến nay đã có 90 nghị định về điều kiện kinh doanh được sửa đổi. Sau khi rà soát các điều kiện kinh doanh trong các văn bản quy phạm pháp luật trước khi được sửa đổi cũng như rà soát các nghị định về sửa đổi điều kiện kinh doanh mới ban hành cho thấy, các điều kiện kinh doanh thực sự được bãi bỏ chỉ là 771, trong khi đó có 29 điều kiện kinh doanh phát sinh. Nếu tính tổng số các điều kiện kinh doanh hiện hành, thì việc cắt giảm là không đạt 50%.
Về tác động của các điều kiện kinh doanh được bãi bỏ, ông Hiếu cho rằng một số điều kiện kinh doanh được bãi bỏ cơ bản là có tác động, nhưng cũng có một số điều kiện không có tác động và một số ít có tác động lớn. “Đơn cử, với điều kiện kinh doanh đối với cá nhân được hành nghề xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, việc bãi bỏ điều kiện “Có năng lực, hành vi dân sự” gần như không có tác động”, ông Hiếu dẫn chứng. Với những điều kiện kinh doanh được sửa đổi, đại diện CIEM cũng nhấn mạnh, ít điều kiện được sửa đổi có tác động lớn, hầu hết có tác động trung bình, thậm chí là yếu. Quan ngại nhất, theo ông Phan Đức Hiếu, vẫn mọc ra điều kiện kinh doanh mới với chất lượng kém, đơn cử như Nghị định 49/2018/NĐ-CP trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó, điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục phải có trụ sở ổn định trong 2 năm, có đủ phòng làm việc cho kiểm định viên với diện tích tối thiểu 8 m2/người, có ít nhất 10 kiểm định viên làm việc toàn thời gian… Từ đó, ông Hiếu cho rằng, rào cản kinh doanh vẫn còn khá phổ biến, thậm chí đại diện CIEM cho biết “không tưởng tượng được phải thi hành như thế nào với những điều kiện kinh doanh sau khi được bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung”.
“Cắt giảm điều kiện kinh doanh chỉ là một phần, chất lượng điều kiện kinh doanh mới là vấn đề quan trọng. Trộn lẫn điều kiện kinh doanh cũ và điều kiện kinh doanh sửa đổi, bổ sung, ban hành mới… cho thấy kiểm soát được điều kiện kinh doanh là thách thức không hề nhỏ”, ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh.
Rụt rè, chưa mạnh dạn trong thay đổi cách thức quản lý
Theo chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh, chúng ta đưa cơ chế một cửa vào thực hiện nhưng có nhiều DN phản ánh, tiến hành các thủ tục có nhiều khâu thực hiện qua mạng, “nhưng đến khâu cuối cùng vẫn phải tiếp xúc giữa người với người và DN vẫn phải mất chi phí “bôi trơn”, thậm chí có DN phản ánh phong bì còn tăng cao hơn trước. Với chi phí như thế liệu hàng hóa của Việt Nam có cạnh tranh được không?”, chuyên gia Lê Đăng Doanh đặt câu hỏi.
Ông cho rằng, cải cách điều kiện kinh doanh là cuộc chiến đấu rất cần thiết, khẩn cấp, nếu không cải thiện được thì theo các hiệp định thương mại được ký kết, các sản phẩm, dịch vụ của nước ngoài tràn vào, DN Việt vừa khởi nghiệp, gặp những khó khăn liên quan đến điều kiện kinh doanh sẽ nhanh chóng phải rời bỏ thị trường, hậu quả sẽ rất rõ ràng. Cho rằng quản lý bằng các điều kiện kinh doanh như hiện nay là rất lạc hậu, không phù hợp với tinh thần Cách mạng công nghiệp 4,0, chuyên gia Lê Đăng Doanh nhấn mạnh Nhà nước chỉ cần quản lý điều kiện cung ứng dịch vụ ra thị trường, còn tổ chức thực hiện từ sản xuất. Đưa ra thị trường như thế nào Nhà nước không nên can thiệp.
Đánh giá về vấn đề này, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, chương trình cắt giảm và đơn giản hóa với mục tiêu đạt 50%, tuy nhiên nặng về đơn giản hóa hơn là bãi bỏ. Ông Đậu Anh Tuấn cũng nhấn mạnh, thay đổi phương thức quản lý còn ít, còn e dè, lừng chừng. Những điển hình như việc ban hành Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Bộ Y tế vẫn còn ít. “Tư duy nhà nước can thiệp vẫn phổ biến, theo kiểu nhà nước khôn hơn thị trường. Có thể thấy vẫn đang có sự rụt rè, chưa mạnh dạn thay đổi hẳn cách thức quản lý. Trong khi đó, vai trò của các hiệp hội, tổ chức khác bên ngoài còn yếu”, ông Tuấn nói.
Từ thực trạng cắt giảm điều kiện kinh doanh, ông Tuấn đề xuất cần phải có quy trình ban hành điều kiện kinh doanh, kiểm soát văn bản mới. Theo đó, bên cạnh đơn vị ban hành điều kiện kinh doanh, cần có đơn vị chủ trì việc rà soát điều kiện kinh doanh và đơn vị này nên là đơn vị độc lập trong các bộ, ngành, ví dụ như bộ phận Pháp chế của các bộ, ngành. Việc đặt ra điều kiện kinh doanh mới phải có thẩm định tác động về kinh tế. “ Các DN lớn sáp nhập còn phải làm thủ tục về đánh giá hạn chế cạnh tranh, trong khi đó một quy định tác động đến cả ngành hàng, tác động đến cạnh tranh rất lớn lại không chịu thẩm định, tác động gì chặt chẽ là không ổn” ông Đậu Anh Tuấn lí giải. Tuy nhiên, đại diện VCCI nhấn mạnh, điều kiện kinh doanh nhiều không lo ngại bằng cách áp dụng không minh bạch, không tin cậy, do đó, cần có bộ phận chuẩn hóa về điều kiện kinh doanh trong cơ quan Chính phủ.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, nỗ lực cải cách điều kiện kinh doanh luôn cần phải liên tục, nhất quán. Đã có 30% điều kiện kinh doanh được cắt giảm được đánh giá là thực chất, điều này chắc chắn có tác động tới DN, nhưng tác động này còn phụ thuộc vào sự thay đổi cách thức thực hiện ở các địa phương. Vì thế tới đây, ngoài việc bãi bỏ điều kiện kinh doanh phi lý, hạn chế điều kiện kinh doanh mới thì phải giám sát xem việc thực hiện các điều kiện kinh doanh sau khi được cắt gảm bãi bỏ là như thế nào. Và vai trò của lãnh đạo địa phương là rất quan trọng, sự vào cuộc của lãnh đạo địa phương ảnh hưởng lớn đến thực thi của công chức.