Cần những giải pháp phù hợp và đồng bộ để xóa bỏ lò vôi thủ công

Mặc dù thời hạn xác định đã đến, nhưng trên thực tế việc xóa bỏ lò vôi thủ công vẫn diễn ra chậm chạp, nên cần có sự vào cuộc quyết liệt của các Bộ, ngành, địa phương.

Theo Quyết định số 1469 ngày 22-8-2014 của Thủ tướng Chính phủ, về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số 507 ngày 27-4-2015 của Bộ Xây dựng Phê duyệt quy hoạch triển công nghiệp vôi đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, về loại bỏ toàn bộ các lò vôi thủ công (gián đoạn và liên hoàn) trên phạm vi toàn quốc phải được thực hiện trong năm 2020.

Mặc dù thời hạn xác định đã đến, nhưng trên thực tế việc xóa bỏ lò vôi thủ công vẫn diễn ra chậm chạp, nên cần có sự vào cuộc quyết liệt của các Bộ, ngành, địa phương.

Nhu cầu sử dụng và thực trạng sản xuất

Tiến sĩ Nghiêm Gia, Hội Khoa học Kỹ thuật Đúc Luyện kim Việt Nam cho biết, vôi là nguyên liệu không thể thiếu cho các ngành xây dựng, nông nghiệp, thực phẩm, giấy, luyện kim và môi trường…

Trong lĩnh vực xây dựng, vôi được sử dụng để sản xuất gạch vôi silic và vật liệu khác. Vôi là chất xúc tác cho bê tông và vữa để tăng độ bền cho công trình xây dựng. Đối với nông nghiệp, vôi dùng làm phân bón.

Khi đất nhiễm acid, vôi được dùng để nâng cao độ pH của đất, tăng hàm lượng canxi và magiê sẽ tạo điều kiện hoạt động vi sinh, tăng chất hữu cơ và dinh dưỡng cho đất. Trong sản xuất giấy, vôi được sử dụng để phục hồi soda trong quá trình tạo bột giấy, tẩy giấy; dùng để xử lý và làm sạch nước tại các nhà máy cấp nước sinh hoạt (làm mềm nước bằng cách loại bỏ độ cứng bicarbonate và tẩy uế chống lại vi khuẩn).

Ngoài ra, vôi dùng để xử lý nước thải công nghiệp (trung hòa acid trong nước thải công nghiệp; loại bỏ silic, mangan, florua, sắt và các tạp chất khác trong nước trước khi thải ra môi trường); hấp thụ lưu huỳnh dioxid từ khí thải trong các nhà máy nhiệt điện...

Ngành sản xuất vôi được hình thành phát triển từ lâu đời trên thế giới và ở Việt Nam. Việc sản xuất vôi ở Việt Nam đa số theo cách nung vôi thủ công và rất lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực. Hiện trên địa bàn cả nước có khoảng 1.000 lò vôi thủ công gián đoạn và liên hoàn công suất nhỏ (từ 5 - 7 tấn/mẻ hoặc chỉ từ 15-20 tấn/ngày), tập trung nhiều nhất ở các địa phương: Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Giang, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Kiên Giang… với tổng công suất sản xuất khoảng 2 triệu tấn/năm.

Nhiều năm qua, tình trạng lò vôi thủ công gây ô nhiễm môi trường (do khói, khí và bụi thải)... diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Trong khi đó, các sơ sở sản xuất vôi công nghiệp rất ít, chỉ có khoảng dưới 10 cơ sở, với công suất thiết kế của mỗi lò từ 150 - 200 tấn/ngày.

Báo cáo về thực trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất vôi của Tổng cục Môi trường nêu rõ, các lò vôi thủ công đã phát thải các loại khí bụi độc hại (khí, bụi và bụi siêu mịn…) gây ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động tại khu vực sản xuất và cộng đồng dân cư vùng lân cận. Chỉ số bụi vượt từ 1,6 đến 1,8 lần, khí CO vượt 4,0 đến 4,2 lần so với QCVN 19:2009/BTNMT.

Không chỉ gây ô nhiễm môi trường, các lò vôi thủ công còn gây ra nhiều tai nạn lao động chết người do ngạt khí và sập lò. Chẳng hạn như ngày 1-1-2016 tại xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống (Thanh Hóa) đã xảy ra một vụ ngạt khí tại lò nung vôi khiến 8 người chết và 1 người bị thương nặng. Ngày 3-7- -2017 tại lò vôi của khu Vạn Chánh, thị trấn Phú Thứ, huyện Kinh Môn (Hải Dương) có 5 công nhân thiệt mạng do sập lò...

Năng lực sản xuất và tiêu thụ vôi tập trung chủ yếu tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Đây là các khu vực tập trung nhiều mỏ đá vôi của Việt Nam. Mức tăng trưởng nhu cầu về vôi giai đoạn năm 2010-2020 bình quân ước tính 20%/năm và giai đoạn 2021-2030 trung bình khoảng 10%/năm.

Số lượng vôi xuất khẩu trong giai đoạn 2010-2020 bình quân từ 0,5 triệu đến 1,5 triệu tấn/năm, thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Thái Lan và Myamar. Đến năm 2030, dự báo nhu cầu vôi khoảng 10,8 triệu tấn, trong đó tiêu thụ trong nước khoảng 7,8 triệu tấn và xuất khẩu 3 triệu tấn.

Việc xóa bỏ lò vôi thủ công gặp nhiều khó khăn.

Việc xóa bỏ lò vôi thủ công gặp nhiều khó khăn.

Những khó khăn, vướng mắc

Thực hiện Quyết định số 1469 và theo lộ trình trong Quyết định số 507 của Bộ Xây dựng xác định: Trong năm 2015, không cấp phép đầu tư xây dựng mới các lò nung vôi thủ công trên phạm vi toàn quốc.

Đến năm 2016 loại bỏ ít nhất 50% số lò thủ công; chỉ duy trì khoảng 500.000 tấn/năm sản lượng sản xuất bằng lò vôi thủ công gián đoạn và 1.000.000 tấn/năm sản lượng lò thủ công liên hoàn. Đến năm 2020 loại bỏ toàn bộ các lò thủ công gián đoạn và thủ công liên hoàn trên phạm vi toàn quốc.

Cho dù chủ trương xóa bỏ lò vôi thủ công là rất cần thiết, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, nhận thức về bảo vệ môi trường của một số người dân và địa phương có lò vôi thủ công còn hạn chế.

Nhiều cơ sở chưa chú trọng đầu tư kinh phí, nguồn lực để thực hiện chuyển đổi sang sản xuất vôi công nghiệp. Thậm chí khi cán bộ quản lý địa phương xuống vận động, một số chủ lò vôi không hợp tác và không mặn mà với chủ trương này. Mặt khác, do thời hạn thực hiện loại bỏ lò vôi thủ công chỉ có 5 năm (2015-2020), nên nhiều chủ lò cho rằng thời gian quá ngắn nên họ chưa kịp hoàn vốn đầu tư xây lò, cùng với hàng ngàn lao động mất việc làm.

Nhà nước cũng chưa có chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ sản xuất vôi tiên tiến, hiện đại để thay thế lò vôi thủ công. Trong khi phần lớn người lao động tại các lò vôi thủ công xuất thân từ nông nghiệp, tuổi đời cao, trình độ học vấn thấp, khi lò vôi thủ công chấm dứt hoạt động họ không biết làm nghề gì khác để mưu sinh.

Một nguyên nhân nữa là trong những năm qua, việc cấp phép khai thác các mỏ đá vôi với quy mô nhỏ khá phổ biến ở các địa phương. Thậm chí nhiều chủ mỏ đá vôi đã đầu tư lò vôi thủ công để tiêu thụ đá vôi do họ khai thác. Sự liên minh “mỏ đá vôi với lò vôi thủ công” càng làm cho tiến độ xóa lò vôi thủ công càng khó khăn hơn.

Giải pháp đồng bộ để xóa bỏ lò vôi

Theo “Quy hoạch Phát triển công nghiệp vôi Việt Nam năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, dự báo đến năm 2020 nhu cầu vôi vào khoảng 8,18 triệu tấn; năm 2030 là 10,8 triệu tấn. Để thực hiện mục tiêu vừa xóa bỏ lò vôi thủ công, vừa phải đảm bảo nhu cầu vôi cho các ngành công nghiệp, Tiến sĩ Nghiêm Gia cho rằng đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp và đồng bộ mang tính khả thi cao.

Trước hết là kiên trì tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp, người lao động và cán bộ quản lý ở địa phương về sự cần thiết phải thực hiện chủ trương xóa bỏ lò vôi thủ công.

Yêu cầu các địa phương có lò vôi thủ công phải xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện, có sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng về xây dựng, đầu tư và quản lý môi trường. Cần thiết phải gắn trách nhiệm của người đứng đầu tại các địa phương khi thực hiện chủ trương xóa bỏ lò vôi thủ công theo Quyết định 1469 và Quyết định 507.

Đặc biệt là đổi mới công nghệ và quy mô công suất theo hướng tập trung mọi nguồn lực (ngân sách nhà nước, doanh nghiệp tư nhân theo hình thức xã hội hóa), để nghiên cứu đổi mới công nghệ và phát triển các dự án sản xuất vôi với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Nghiên cứu sử dụng nhiên liệu thay thế nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất vôi nhằm tiết kiệm tài nguyên và giảm ô nhiễm môi trường.

Cơ quan có thẩm quyền chỉ phê duyệt đầu tư các dự án mới có công suất mỗi lò sản xuất vôi 200 tấn/ngày (60.000 tấn/năm). Các cơ sở sản xuất vôi phải lựa chọn thiết bị và công nghệ nghệ tiên tiến đảm bảo vệ sinh môi trường, khuyến khích sử dụng công nghệ xanh, cơ giới hóa và tự động hóa, nhằm đáp ứng các chỉ tiêu chính là tiêu hao nhiệt năng< 900 Kcal/kg; tiêu hao điện< 30 Kwh/tấn; phát thải khi và bụi theo TCVN. Triển khai các dự án đầu tư thu hồi khí lò vôi để sản xuất CO2 lỏng và rắn, gắn với các dự án sản xuất lò vôi công nghiệp tại một số địa phương.

Việc quản lý và cấp phép khai thác mỏ đá vôi phải được thắt chặt hơn. Hạn chế và tiến tới không cấp phép khai thác các mỏ đá vôi với quy mô công suất nhỏ hơn 50.000 tấn/năm và công nghệ khai thác thủ công lạc hậu. Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp sản xuất vôi thủ công trong việc chuyển đổi nghề cho người lao động và đào tạo, để họ có thể tiếp nhận và chuyển giao công nghệ sản xuất vôi tiên tiến và hiện đại.

Bộ Xây dựng cần phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương liên quan, tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề đánh giá kết quả thực hiện lộ trình đóng cửa hoàn toàn lò vôi thủ công, theo chỉ đạo của Chính phủ đã nêu trong Quyết định 1469; Quyết định 507 của Bộ Xây dựng.

Văn Hào

Nguồn CAND: http://cand.com.vn/doi-song/can-nhung-giai-phap-phu-hop-va-dong-bo-de-xoa-bo-lo-voi-thu-cong-586772/