Cần giải mật các tài liệu trong hồ sơ vụ án

Theo chuyên gia, tài liệu đã đưa vào hồ sơ vụ án và nhiều người nghiên cứu thì khi tòa xét xử công khai không cần phải bí mật nữa.

Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, các luật sư (LS) bào chữa trong vụ ông Nguyễn Hữu Tín cùng đồng phạm vụ giao đất số 15 Thi Sách cho công ty của Vũ “nhôm” vừa kiến nghị TAND TP.HCM xem xét tính pháp lý của các tài liệu mật trong hồ sơ.Vì theo Điều 25 BLTTHS 2015 thì “tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự…”.

Có lạm dụng chữ “mật”?

Theo LS, quy định về việc xét xử công khai là hành vi tự động giải mật đối với các tài liệu, văn bản mật có trong vụ án. Người bào chữa có thể sử dụng công khai các tài liệu có trong vụ án mà không vi phạm pháp luật. Các LS đã đề nghị cơ quan xét xử có hướng dẫn cụ thể để thống nhất trong việc sử dụng các tài liệu, văn bản mật (chưa được giải mật) đối với người bào chữa khi xét xử công khai và xử kín. Cụ thể, về hình thức, cách thức, phạm vi sử dụng văn bản thế nào…

Còn nhớ mới đây, ngay phần mở đầu phiên tòa vụ Pharma buôn thuốc giả, chủ tọa lưu ý trong hồ sơ vụ án có tài liệu đóng dấu mật, tuyệt mật. Những người sử dụng tài liệu này phải chú ý, ai cố tình làm lộ bí mật sẽ bị xử lý theo quy định.

Sau đó, trong quá trình xét xử, chủ tọa đã mời đại diện Cục Quản lý dược cung cấp toàn bộ tài liệu Bộ Y tế đã có quyết định giải mật để sử dụng cho quá trình xét xử. Đó là những tài liệu gửi tới CQĐT thông tin phục vụ cho quá trình điều tra, kết luận giám định của hội đồng chuyên môn thuốc H-Capital...

Không chỉ trong hoạt động xét xử, tháng 4-2019, trong bối cảnh tiền điện tăng đột biến theo giá mới, trong dự thảo danh mục bí mật nhà nước (BMNN) ngành công thương, Bộ Công Thương cũng đề xuất đưa phương án chỉ đạo, điều chỉnh giá điện chưa công bố vào danh mục tài liệu mật. Đề xuất này đã gặp ngay phản đối bởi xăng dầu, điện là mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân nên phải được công bố chứ không thể cho là… mật.

Trước đó, tháng 5-2018, HĐND TP.HCM giám sát tại Sở Tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng đất công. Sở này đã gửi đến các đại biểu tham dự một bản báo cáo hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất trên địa bàn TP, trọng tâm là tài nguyên đất do nhà nước trực tiếp quản lý nhưng đóng dấu mật.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga từng nói về tình trạng lạm dụng dấu mật khi góp ý cho dự thảo Luật Bảo vệ BMNN 2018: “Có những bộ đóng dấu mật cả vào chất vấn của đại biểu Quốc hội dù không có thông tin mật làm cho đại biểu Quốc hội không thể trả lời cử tri về thông tin mà mình chất vấn được. Nhiều cơ quan, bộ, ngành lạm dụng dấu mật để không công khai thông tin, ảnh hưởng đến việc phòng, chống tham nhũng và đẩy người dân vào tình trạng dễ bị quy chụp. Quy định về mật không rõ ràng còn đẩy một số cá nhân vào vòng lao lý khi bị quy là làm lộ tài liệu mật”.

Khu đất số 15 Thi Sách (quận 1, TP.HCM) liên quan đến sai phạm của ông Nguyễn Hữu Tín (ảnh nhỏ) và đồng phạm. Ảnh: HOÀNG GIANG

Khu đất số 15 Thi Sách (quận 1, TP.HCM) liên quan đến sai phạm của ông Nguyễn Hữu Tín (ảnh nhỏ) và đồng phạm. Ảnh: HOÀNG GIANG

Tòa phải giải mật hoặc hướng dẫn

Theo TS-LS Nguyễn Hữu Thế Trạch, Đoàn LS TP.HCM, việc các LS vụ ông Nguyễn Hữu Tín kiến nghị tòa giải thích và yêu cầu cơ quan liên quan dấu mật phải giải mật là cần thiết. Vấn đề cần bàn là hiểu sao về tài liệu mật và pháp luật quy định thế nào về việc giải mật.

Đã ra tòa thì không còn bí mật nữa

Đối với các quy định riêng cho Bộ Công an và tòa án để giải quyết các vụ án thì chỉ xác định độ mật của văn bản khi lập chuyên án để đánh án, tòa án - VKS để phối hợp. Còn khi đã đưa ra xét xử công khai, tất cả tài liệu đã đưa vào hồ sơ, nhiều người nghiên cứu và biết thì không cần bí mật nữa. Theo tố tụng hình sự, khi LS nghiên cứu, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì họ có quyền nêu ra văn bản, viện dẫn và công bố các tài liệu đó.

LS NGUYỄN HOÀNG NAM, Đoàn LS TP.HCM

P.LOAN

Cần có hướng dẫn cụ thể

Tôi từng tham gia công tác xét xử và trọng tài thương mại nhiều năm và thấy rằng trước hết phải xác định độ mật của tài liệu trên theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Cạnh đó, tính chất mật của tài liệu cũng có thời hạn nhất định, tức có những tài liệu sau một thời gian sẽ tự giải mật. Trong vụ án, khi ra tòa xét xử thì cần phải công khai chứng cứ để làm rõ vụ án. Vì vậy, trong vụ án cụ thể, tòa và VKS cần có hướng dẫn cụ thể để người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình tranh tụng.

LSNGUYỄN THỊ KIM VINH, Đoàn LS TP.HCM

HOÀNG YẾN ghi

Điều 12 Thông tư 33/2015 của Bộ Công an có quy định về giải mật, giảm mật, tăng mật tài liệu, vật mang BMNN do cơ quan, tổ chức soạn thảo. Thông tư cũng quy định về căn cứ để đề xuất giải mật, giảm mật, tăng mật. Vì vậy, kiến nghị trên của các LS thể hiện sự tôn trọng và chấp hành đúng các quy định của pháp luật và để tránh những sự việc đáng tiếc. Cũng theo LS Trạch, khi hồ sơ vụ án ở tòa để chuẩn bị xét xử thì tòa cần kiến nghị cơ quan ban hành tài liệu mật giải mật các tài liệu trước khi cho LS tiếp cận hồ sơ. Việc này vừa bảo đảm được tính bí mật của tài liệu, vừa bảo đảm tiến độ xét xử, tránh mất thời gian.

LS Nguyễn Văn Dũ, Đoàn LS TP.HCM, cho rằng liệu đóng dấu mật trong hồ sơ vụ án có thể là văn bản chỉ đạo của cấp có thẩm quyền hoặc trao đổi giữa các cơ quan, ban, ngành về một vấn đề cụ thể nào đó. Nếu tài liệu này có giá trị phục vụ cho việc làm rõ bản chất của vụ án và được thu thập theo đúng quy định BLTTHS thì được xem là chứng cứ. Khi đó, tài liệu này cần được sử dụng tại phiên tòa để phục vụ cho việc xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Song vì tài liệu đang còn dấu mật nên không ai được phép công bố, nên cần phải được giải mật trước khi sử dụng.

“Nhiều tài liệu đóng dấu mật đang là một bức tường ngăn cản việc tiếp cận vụ việc không chỉ của các LS. Hiện nay có tình trạng cơ quan chức năng nhà nước lạm dụng để đóng dấu mật lên nhiều loại văn bản, báo cáo không thật sự cần thiết vì không thuộc BMNN” - LS Kim Ron Tha, Đoàn Ls TP.HCM, nói. Theo LS Tha, cần làm rõ một số quy định về những danh mục BMNN, tránh lạm dụng. Riêng với vụ án Nguyễn Hữu Tín đang trong giai đoạn xét xử, hồ sơ tài liệu cần kết luận và công bố sớm để chứng tỏ không có vùng cấm nào nằm ngoài pháp luật.

Căn cứ để giải mật

Hiện nay các văn bản quy định về bảo vệ BMNN gồm: Pháp lệnh bảo vệ BMNN 2001, Nghị định 33/2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN; Thông tư 33/2015 Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 33/2002. Ngoài ra còn có các văn bản quy định về bảo mật trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể.

Theo khoản 4 Điều 3 Thông tư 33/2015 của Bộ Công an, khi cần giải mật, cơ quan quản lý tài liệu mật làm thủ tục trình cấp có thẩm quyền quyết định giải mật danh mục BMNN của cơ quan, tổ chức mình. Điều 12 Thông tư 33/2015 quy định về nguyên tắc, căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục giải mật.

Việc giải mật có thể căn cứ vào danh mục BMNN do các cơ quan có thẩm quyền ban hành; căn cứ vào thay đổi của tình hình thực tế; căn cứ vào nội dung của từng tài liệu, vật mang BMNN cụ thể, nếu thấy việc tiết lộ không gây nguy hại cho lợi ích của Nhà nước; căn cứ vào việc toàn bộ hoặc một phần tài liệu, vật mang BMNN được công bố trong tài liệu khác.

Đang góp ý về danh mục bí mật nhà nước

Thực hiện kế hoạch của Thủ tướng về việc triển khai thi hành Luật Bảo vệ BMNN (có hiệu lực từ ngày 1-7-2020) và Văn bản 1565 ngày 16-9 của Bộ Công an về việc đề nghị lập danh mục BMNN trình Thủ tướng ban hành, hiện nay các bộ, ngành, TAND Tối cao, VKSND Tối cao… đang góp ý về danh mục BMNN thuộc lĩnh vực mình.

PHƯƠNG LOAN

Nguồn PLO: https://plo.vn/phap-luat/can-giai-mat-cac-tai-lieu-trong-ho-so-vu-an-866049.html